TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL 
 ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY 
 Số 70 (04/2020) No. 70 (04/2020) 
Email: 
[email protected] ; Website:  
72 
BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TINH THẦN 
TẠI CÁC XÃ NÔNG THÔN MỚI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
(Thông qua khảo sát ý kiến đánh giá của người nông dân) 
Conserving the spiritual cultural heritage values in the new rural communes in 
Ho Chi Minh City (Through evaluating opinions collected from farmers) 
ThS. Huỳnh Văn Sinh 
Học viện Cán bộ TP.HCM 
TÓM TẮT 
Qua gần 10 năm xây dựng nông thôn mới, diện mạo văn hoá các xã nông thôn mới ở Thành phố Hồ Chí 
Minh có những chuyển biến cả chất và lượng. Với kết quả điền dã quan sát không tham dự và tham dự 
tại một số xã xây dựng nông thôn mới, bài viết nêu những thành tựu, hạn chế trong việc khai thác di sản 
văn hoá tinh thần và đề xuất các biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa tinh thần trong 
thời gian tới. 
Từ khóa: di sản văn hoá, giá trị, nông thôn mới, văn hoá tinh thần 
ABSTRACT 
After nearly 10 years of new rural construction, the cultural aspects of the new rural communes have 
changed in both quality and quantity. With the results from observation fieldwork (attendance and non-
attendance) in some new rural communes, the article pointed out the achievements and limitations in 
exploiting the spiritual cultural heritage, proposed measures to conserve and promote it in the future. 
Keywords: cultural heritage, values, new rural communes, spiritual culture 
1. Đặt vấn đề 
Nông thôn là môi trường sống của 
người nông dân, với các hoạt động kinh tế, 
văn hóa, xã hội cùng nhiều nét đặc thù về 
không gian sống, cấu trúc và tổ chức xã 
hội, quan hệ con người và sinh kế. Ngày 05 
tháng 8 năm 2008, Ban Chấp hành Trung 
ương khoá X ban hành Nghị quyết số 26-
NQ/TW, với quan điểm “ Nông nghiệp, 
nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược 
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là lực 
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã 
hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, 
đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát 
huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi 
trường sinh thái của đất nước” (Ban Chấp 
hành Trung ương Đảng, 2008, tr.2). Trong 
đó, việc “giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá 
dân tộc” là tiêu chí tạo nên sự khác biệt 
giữa nông thôn mới (NTM) và nông thôn 
truyền thống. NTM có quy hoạch xây dựng 
của cộng đồng xã hội các cấp trong một 
thời điểm nhất định, còn nông thôn truyền 
thống là di sản của một quá trình lịch sử 
mang nhiều yếu tố tự nhiên và tự phát. 
Email: 
[email protected] 
HUỲNH VĂN SINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
73 
Qua khảo sát, điền dã quan sát không 
tham dự và tham dự tại một số xã của 5 
huyện ngoại thành xây dựng NTM, tác giả 
làm rõ thực trạng việc khai thác, sử dụng 
các giá trị di sản văn hóa tinh thần(1) và đề 
xuất những biện pháp góp phần bảo lưu, 
phát huy các giá trị di sản văn hoá tinh thần 
của vùng NTM ở Thành phố thời gian tới. 
2. Nội dung 
2.1. Giá trị di sản văn hoá tinh thần 
trong đời sống cộng đồng dân tộc Việt Nam 
Theo Luật Di sản văn hoá của Việt 
Nam, “Di sản văn hoá bao gồm di sản văn 
hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là 
sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch 
sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ 
thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng 
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Văn 
phòng Quốc hội, 2013, Phần Qui định 
chung, Điều 1). 
Di sản văn hoá tinh thần là dạng di sản 
văn hoá được bảo tồn và lưu giữ dưới dạng 
phi vật thể, mà ta không thể nhận biết được 
bằng xúc giác. Đó là các sản phẩm tinh 
thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, 
được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được 
lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, 
trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu 
truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, 
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, 
ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân 
gian, lối sống, nếp sống lễ hội, bí quyết về 
nghề thủ công truyền thống, tri thức về y 
dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về 
trang phục truyền thống dân tộc và những 
tri thức dân gian khác (Nguyễn Thị Kim 
Loan, 2012, tr.14-15). 
Như vậy, di sản văn hóa tinh thần là 
các giá trị văn hoá phi vật thể được tích luỹ 
trong quá trình lao động sản xuất thuộc cấu 
trúc truyền thống văn hoá dân tộc, được 
lưu truyền với nhiều hình thức khác nhau 
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bài viết 
dừng lại việc tìm hiểu các giá trị văn hoá 
tinh thần trong tiến trình xây dựng NTM 
mới ở Thành phố Hồ Chí Minh được thể 
hiện qua các nội dung cụ thể như: 
Đầu tư cơ sở vật chất như nhà văn hóa, 
trung tâm thể thao đa năng, nhằm giữ gìn, 
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền 
thống tinh thần tại các xã xây dựng NTM. 
Các giá trị quan hệ gia đình-cộng đồng 
trong việc cưới, tang, lễ hội.v.v. Vậy trong 
gần 10 năm xây dựng NTM, các giá trị văn 
hóa tinh thần này có sự chuyển biến như 
thế nào? 
2.2. Những thay đổi trong việc khai 
thác các giá trị di sản văn hoá tinh thần 
tại các xã xây dựng nông thôn mới 
2.2.1. Việc đầu tư cơ sở vật chất, bảo 
tồn các giá trị văn hóa truyền thống tại các 
xã xây dựng nông thôn mới 
Theo tiêu chí thứ 6 và 16 của Chương 
trình NTM, nhà văn hóa, trung tâm sinh 
hoạt cộng đồng, trung tâm thể thao đa 
năng là những cơ sở vật chất văn hóa để 
hướng tới mục tiêu đạt tiêu chuẩn xã văn 
hóa. Thành phố đã đầu tư với nguồn kinh 
phí khá lớn, trang thiết bị khá đầy đủ và 
tương đối tiện nghi, hiện đại, không gian 
phù hợp đã thu hút khá đông người dân tới 
tham gia để cập nhật thông tin thời sự, trao 
đổi kinh nghiệm đồng áng, nông vụ, tham 
gia các lớp chuyển giao khoa học công 
nghệ, giao lưu hội nhóm đờn ca tài tử, hát 
Karaoke, xem tổ chức biểu diễn cải lương, 
hội chợ kèm dịch vụ; tham gia trò chơi thể 
thao như cờ tướng, bóng chuyền, bóng bàn, 
cầu lông, patin.v.v. Nhất là thanh thiếu 
niên có sân chơi giải trí, tăng cường và bảo 
vệ sức khỏe, học tập phát triển các năng 
khiếu. Các di tích lịch sử văn hóa, nơi sinh 
hoạt văn hóa cộng đồng cũng được quan 
tâm phục hồi, trang hoàng khá tốt2 (Huỳnh 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 
74 
Văn Sinh, 2017, tr.84). 
Theo chính ý kiến của người dân về 
hiệu quả của Chương trình NTM trong thời 
gian qua, ghi nhận tại xã Tân Thông Hội, 
huyện Củ Chi và xã Nhơn Đức, huyện Nhà 
Bè: “Chúng tôi thường tới nhà văn hóa 
vào tối chủ nhật thôi, chứ ngày thường thì 
không, lâu lâu có ca nhạc thì lên coi một 
chút rồi về Mọi người thường tới Đình 
dịp lễ hội kỳ yên, coi hát bội, cải lương; 
Phương tiện nghe nhìn ai cũng có. Nhưng 
vui chơi giải trí thì xã đang xây dựng nhà 
văn hóa để tổ chức văn nghệ, phong trào 
phục vụ bà con. Thường thì sáng họ hay 
uống cà phê rồi bàn về giá cả, thời sự3” 
(Huỳnh Văn Sinh, 2017, tr.87-88). 
Như vậy, nhu cầu hưởng thụ của nhân 
dân vẫn còn dừng lại ở mức phong trào, chưa 
đi vào chiều sâu, chưa mang tính lâu dài. 
Hiện nay, các sản phẩm công nghệ cao như: 
điện thoại di động, truyền hình, Internert, 
truyền hình mạng - cáp đã len lỏi khắp 
mọi vùng nông thôn, làm mất dần đi những 
sân chơi nhằm bảo tồn các giá trị di sản văn 
hóa tinh thần. Vì thế, Nhà văn hóa xã cần có 
sự chuyển giao những mô hình mẫu, mang 
tính trực quan, sinh động, sáng tạo và phù 
hợp hơn với lứa tuổi, trình độ dân trí của 
người nông dân trên từng địa bàn. Nơi sinh 
hoạt của đình, chùa, đền thờ chỉ là điểm đến 
của những người lớn tuổi hoặc có chỉ thỉnh 
thoảng do một phần bận bịu với công việc 
đồng áng. Ghi nhận từ ý kiến của người dân 
tại xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn 
“Có một số bạn trẻ hiện nay không tới, 
không biết Đình, Miễu gì cả. Không thích 
nhạc tài tử, có nghe hát vậy thôi, chứ không 
thích gì mấy” (Huỳnh Văn Sinh, 2017, tr. 
89). Vì thế, nhà văn hóa xã cần thực hiện tốt 
hơn các hoạt động văn hóa truyền thống bổ 
ích, hiệu quả để thu hút nhân dân tham gia. 
Cần phục hồi nghi thức diễn xướng văn hoá 
truyền thống vào dịp lễ kỳ yên tại các đình 
để khơi dậy lòng tự hào và ngọn lửa nhiệt 
tình với quê hương. 
Mặt khác, những hình thức sinh hoạt 
văn hóa dân gian của vùng Nam Bộ sông 
nước, những điệu hò, hát ru đã một thời đi 
vào lòng người nay đã mai một, mất đi. 
Thậm chí, những người nông dân ở vào 
hàng tuổi 40-50 đã không nhớ một câu nào. 
Ý kiến của người dân tại xã Xuân Thới 
Thượng, huyện Hóc Môn “Bà con vẫn còn 
mê và thích cải lương lắm, nhưng chỉ nghe 
rồi thưởng thức hay dở thôi, chứ không 
phân biệt được lớp lang gì đâu; Một số 
người vẫn còn biết hò cấy, nhưng không 
biết hò. Hồi trước có nhiều người lớn tuổi 
dạy cho, chứ bây giờ hầu như không còn ai 
biết nữa” (Huỳnh Văn Sinh, 2017, tr.90). 
Qua đây cho thấy, công tác cổ động, tuyên 
truyền còn nặng về hình thức, chưa đi vào 
thực tiễn yêu cầu của nhân dân. Vì thế kết 
quả cuối cùng chỉ là những câu trả lời 
“không biết, có nghe nhưng không rõ”. 
2.2.2. Sự chuyển biến trong quan hệ 
láng giềng, tình làng nghĩa xóm tại các xã 
xây dựng nông thôn mới 
Các chủ trương, chính sách từ Chương 
trình NTM, cùng sự vào cuộc của các hội, 
đoàn thể (Hội nông dân, Hội Người cao 
tuổi, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ) 
nhằm nâng cao sức lan toả của tình làng 
nghĩa xóm, cố kết cộng đồng “bán anh em 
xa, mua láng giềng gần”, “tối lửa tắt đèn có 
nhau”, “tương thân-tương ái”, “tình làng 
nghĩa xóm”. Đây là một đặc trưng sống 
động của nền nông nghiệp lúa nước truyền 
thống (dựa vào nhau mới có thể làm ruộng 
nước được, đổi công cho nhau, tính thời vụ 
cao, chu kỳ nông lịch). Ghi nhận ý kiến 
tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh “Tình 
cảm láng giềng rất gắn bó, rất tốt. Anh 
em nào không có trâu bò thì cùng nhau 
HUỲNH VĂN SINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
75 
giúp cho người ta mượn trâu bò; Quan hệ 
láng giềng vẫn còn như xưa, có gì mình 
vẫn giúp đỡ nhau, không vật chất thì tinh 
thần” (Huỳnh Văn Sinh, 2017, tr. 101). Có 
thể thấy, di sản văn hoá tinh thần của tình 
tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau là 
truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam 
vẫn còn tồn tại trong các xã NTM. 
Tuy nhiên, một số xã xây dựng NTM 
vẫn tồn tại những hiện tượng lệch lạc 
không phù hợp với truyền thống vốn có. 
Hiện tượng “những nhóm lợi ích” lợi dụng 
sự nhẹ dạ, ít hiểu biết của người nông dân 
“đục nước, béo cò” để bán đi tư liệu sản 
xuất chủ yếu là đất đai. Đây là vấn nạn 
thấy rõ được tại các xã với biến động đô thị 
hoá quá cao, vô hình dung đã tạo ra những 
xung đột trong gia đình, xích mích tranh 
chấp láng giềng, có nơi diễn biến phức tạp 
ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội3 
(Huỳnh Văn Sinh, 2017, tr.103). Minh 
chứng cụ thể là ý kiến tại xã Tân Nhựt, 
huyện Bình Chánh “Do đất đai có giá, có 
vài gia đình anh em lại quay lưng với nhau 
cũng vì đất đai, có tiền có khi ăn nhậu, đua 
đòi như người ta rồi cũng hết tiền” (Huỳnh 
Văn Sinh, 2017, tr. 101). 
Như vậy, quan hệ láng giềng, tình làng 
nghĩa xóm phần nào được bảo lưu tại các 
xã xây dựng NTM là kết quả công tác vận 
động, tuyên truyền đúng vào tâm lý tình 
cảm từ sự kế thừa của gia đình, dòng tộc, 
láng giềng, làng xã song những biến đổi 
tiến trình đô thị hoá ít nhiều đã làm xiêu 
vẹo các mối quan hệ tình cảm láng giềng, 
ảnh hưởng khối đoàn kết cộng đồng. 
2.2.3. Việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy 
các giá trị văn hoá tuyền thống tinh thần 
tại các xã xây dựng nông thôn mới 
Trong quá trình xây dựng NTM, gia 
đình bị chi phối bởi rất nhiều nhân tố kinh 
tế, văn hoá vật chất, pháp luật, lối sống, 
chất lượng sống, vấn đề công danh, mưu 
sinh lập nghiệp, thị hiếu và giải trí, Do 
đó, các giá trị đời sống văn hóa truyền 
thống trong phạm vi gia đình, rộng hơn là 
hành vi ứng xử có văn hóa với cộng đồng ở 
nông thôn có phần suy giảm. Gia đình là tế 
bào của xã hội, cho nên với hàng trăm, 
hàng ngàn, hàng triệu tế bào tốt, thì ắt hẳn 
sẽ xây dựng một xã hội tốt. Ngược lại, gia 
đình không tốt “sẽ là tác nhân gây nên sự 
suy đồi, mất trật tự, làm đảo lộn đời sống 
xã hội nông thôn. Đây cũng chính là vấn 
đề không phải của chính riêng một ai” 
(Nguyễn Thị Hậu, 2010, tr.85). Việc xây 
dựng gia đình gia phong, gia lễ, cách ăn, 
nếp ở, đạo lý gia đình - cộng đồng nên 
bắt đầu bằng việc giáo dục từ các bậc làm 
cha, làm mẹ, tạo khung hình mẫu văn hóa 
truyền thống cho con cái, anh em, dòng 
tộc tôn trọng ông bà tổ tiên, gia đình hòa 
thuận, anh em đoàn kết thương yêu nhau 
(Tôn Nữ Quỳnh Trân, 1999, tr.174-175). 
Thông qua tuyên truyền, vận động từ 
Chương trình xây dựng NTM ít nhiều sẽ 
bảo lưu các giá trị văn hoá nề nếp gia đình, 
quan hệ cộng đồng. Ghi nhận tại xã Đa 
Phước, huyện Bình Chánh “Nhìn chung 
các đôi vợ chồng trong xã rất ít lớn tiếng, 
lục đục gây gắt với nhau hết. Vật chất thì 
có thiếu thốn thật nhưng gia đình đầm ấm 
lắm” (Huỳnh Văn Sinh, 2017, tr. 102). 
Qua kết quả tham vấn quan sát cho 
thấy, giá trị thuần phong mỹ tục của gia 
đình tại các xã NTM vẫn còn lưu giữ thông 
qua các giá trị di sản văn hóa truyền thống. 
Sức sống văn hóa truyền thống gia đình 
của nông dân các xã NTM dù có những 
biến đổi lớn hơn những nơi khác (sự năng 
động, hội nhập, giao lưu, lan tỏa) nhưng 
vẫn giữ được nề nếp gia phong của gia 
đình. Chương trình xây dựng NTM luôn 
đồng hành cuộc vận động vì người nghèo, 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 
76 
phong trào đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ đồng 
bào hoạn nạn. Ý kiến tại xã Thới Tam 
Thôn, huyện Hóc Môn cho thấy hiệu ứng 
“Chính quyền xã rất quan tâm đến gia 
đình chính sách, hộ nghèo. Có xây dựng 
nhà tình thương, nhà tình nghĩa, thăm 
người già neo đơn nữa. Chính quyền rất 
quan tâm hỗ trợ. Để giúp nhà tình nghĩa, 
tình thương, Tổ, Xã họp lại xem xét hoàn 
cảnh người ta rồi giúp, vận động mạnh 
thường quân hỗ trợ” (Huỳnh Văn Sinh, 
2017, tr. 102). 
2.2.4. Việc thực hiện nếp sống văn 
minh trong nghi thức vòng đời, lễ hội tại 
các xã xây dựng nông thôn mới 
Qua kết quả điền dã, quan sát tham dự 
và không tham dự, tình hình thực hiện nghi 
thức vòng đời, lễ hội, thực hiện nếp sống 
văn minh, ở các xã xây dựng NTM có 
những chuyển biến tích cực theo đúng tinh 
thần Quyết định số 1396/QĐ-UBND ngày 
29/3/2017 của UBND Thành phố về tiêu 
chuẩn thứ 4 “Thực hiện nếp sống văn hóa, 
văn minh mỹ quan đô thị - nông thôn mới”. 
Đồng thời, thực hiện tốt Chỉ thị 27-CT/TW 
về “thực hiện nếp sống văn minh trong việc 
cưới, việc tang và lễ hội”, những rườm rà 
hủ tục-lạc hậu, lãng phí tiền bạc-thời gian 
được cộng đồng nông dân nhận thức nâng 
lên phần nào4 (Huỳnh Văn Sinh, 2017, 
tr.111). Ngày nay, tang ma được tổ chức 
ngày một đơn giản và văn minh hơn. Theo 
ý kiến của người dân tại xã Thái Mỹ, 
huyện Củ Chi “Bây giờ đám tang thì có 
xã-ấp cử công an đi kiểm tra hết, không có 
nhậu, để có 3 ngày thôi. Ngày xưa vừa 
nghe tang là phải mổ heo bò ăn, bây giờ 
chỉ uống trà, ăn đậu rang thôi, rải vàng mã 
ít lắm”. Đồng thời, các nghi thức, nghi lễ 
trong lễ hội được duy trì, tổ chức thường 
xuyên nhưng khoa học hơn và ít tốn kém 
hơn. Theo ý kiến của người dân tại xã Đa 
Phước, huyện Bình Chánh “Việc cúng 
Đình thì có Ban quí tế lo mỗi dịp lễ hội kỳ 
yên. Các nghi thức truyền thống vẫn còn 
bảo lưu, song không còn rườm rà, kéo dài” 
(Huỳnh Văn Sinh, 2017, tr. 114). 
Như vậy, việc hiện thực hoá nếp sống 
văn minh ở các xã xây dựng NTM có 
những chuyển biến tích cực, góp phần 
chuyển hoá nhận thức của người dân qua 
các chương trình tuyên truyền, vận động 
các cấp chính quyền cơ sở với nhiều hình 
thức phong phú đa dạng khác nhau. 
3. Một số giải pháp phát huy giá trị 
các di sản văn hoá tinh thần tại các xã 
nông thôn mới thời gian tới 
Qua kết quả khảo sát, các di sản văn 
hóa tinh thần của người nông dân vẫn còn 
mang đặc trưng của một nền nông nghiệp 
lúa nước truyền thống, cố kết cộng đồng, 
các giá trị thuần phong mỹ tục của gia đình 
vẫn còn bảo lưu. Nghi thức vòng đời, lễ hội 
ở các xã xây dựng NTM phản ánh việc 
thực hiện nếp sống văn minh qua các 
chương trình tuyên truyền, vận động các 
cấp chính quyền cơ sở với nhiều hình thức 
phong phú đa dạng khác nhau. 
Bên cạnh những thành tựu, Chương 
trình xây dựng NTM vẫn còn tồn tại những 
hạn chế nhất định. Do đó, để việc bảo lưu 
các giá trị di sản văn hoá tinh thần mang 
tính đặc trưng của vùng ngoại thành Thành 
phố hiệu quả và nhằm nâng chất 19 tiêu chí 
xây dựng NTM giai đoạn 2019-2020, 
chúng ta cần thực hiện một số giải pháp cụ 
thể sau: 
Một là, cần loại bỏ tâm lý cục bộ địa 
phương, đầu óc phe cánh, những hủ tục lạc 
hậu trong ma chay, cưới xin; xây dựng tình 
làng nghĩa xóm, tiến hành các nghi thức để 
tôn vinh những người có công khẩn hoang, 
những tiền hiền của làng, những anh hùng 
liệt sĩ đã hy sinh qua công cuộc bảo vệ Tổ 
HUỲNH VĂN SINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
77 
quốc. Cần phối hợp với các ngành, các địa 
phương, huy động trí tuệ của các nhà sử 
học, dân tộc học, luật học, những nhà 
nghiên cứu văn hóa dân gian... điều tra, 
tổng kết những kinh nghiệm truyền thống, 
những chuẩn mực của vùng nông thôn 
ngoại thành với xuất phát điểm là làng 
“mở” tại sao có “tương trợ láng giềng”; 
“bán anh em xa mua láng giềng gần” và 
biết bao nhiêu các chuẩn mực khác đang 
cần được nghiên cứu bảo tồn để phổ biến 
ra diện rộng, đáp ứng yêu cầu phát triển 
NTM trong giai đoạn hiện nay. 
Hai là, cần bài trừ những tư tưởng lợi 
dụng hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa các 
hoạt động văn hóa, nghệ thuật truyền 
thống, vô tình biến đa số quần chúng trở 
thành đối tượng thưởng thức và hưởng thụ 
đơn thuần. Trước nguy cơ nhiều loại hình 
văn hóa, nghệ thuật truyền thống đang mai 
một, chúng ta cần có biện pháp cần thiết để 
hạn chế xu hướng chạy theo lối hưởng thụ 
những thứ nghệ thuật gọi là “tân kỳ” ngoại 
lai, nhất là trong một bộ phận giới trẻ. Sự 
dịch chuyển của vùng “lõi văn minh đô 
thị” sẽ phá nát “một phần yên tĩnh nông 
thôn” với các phương tiện nghe nhìn không 
được thẩm định đến nơi đến chốn về nội 
dung từ các cơ quan quản lý nhà nước là 
một điều đáng báo động. Do đó, nhà nước 
cần phát huy vai trò điều tiết, định hướng 
các hoạt động văn hóa tại các xã NTM sao 
cho vừa giữ được nét văn hóa truyền thống, 
đồng thời đón nhận cái mới, mạnh dạn 
chuyển hoá các hoạt động có tính “xã hội 
hoá” đúng nghĩa đi cùng phương châm 
“nhà nước và nhân dân cùng làm”. 
Ba là, nâng cao chất lượng của các 
hoạt động văn hóa, nghệ thuật chuyên 
nghiệp, phải bằng mọi cách làm sống lại 
phong trào văn nghệ quần chúng ở cả nông 
thôn và đô thị thì mới mong bảo tồn, chấn 
hưng văn hóa, nghệ thuật dân tộc. Nếu 
không, cùng với sự mòn mỏi của thế hệ 
nghệ sĩ dân tộc chuyên nghiệp, tài tử, vọng 
cổ, các điệu lý Nam Bộ... rất có thể cũng sẽ 
đi vào các bảo tàng lịch sử nghệ thuật5. 
Bốn là, cần có những chỉ đạo, định 
hướng rõ ràng tới tận ấp-xã trong việc tổ 
chức lễ hội. Cần nêu rõ trong nghị quyết 
định kỳ tại các chi bộ ấp, giảm việc xem tổ 
chức lễ hội là nơi phô diễn bộ mặt của xã, 
ấp bày biện tốn kém, rườm rà. Muốn thế, 
việc tổ chức lễ hội làm sao kết hợp được 
giữa những giá trị chung (hoạt động cộng 
đồng rộng lớn) và giá trị riêng (của những 
người có tín ngưỡng mà lễ hội đang được 
tiến hành), giá trị truyền thống (những yếu 
tố văn hóa có ý nghĩa tích cực được sáng tạo 
trong quá khứ) và giá trị hiện đại (vệ sinh 
môi trường, vệ sinh sức khỏe cho cư dân, 
không ảnh hưởng đến sản xuất, bảo đảm trật 
tự an ninh xã hội...), kết hợp giữa nguyện 
vọng chính đáng và hợp lý với khả năng vật 
chất, kinh phí thực có của nhân dân tại các 
ấp - xã có tổ chức lễ hội thường niên. 
4. Kết luận 
Qua kết quả nghiên cứu thực trạng 
trên, Chương trình mục tiêu Quốc gia xây 
dựng NTM sau gần 10 năm thực hiện đã 
đạt những thành tựu rất khích lệ nhưng 
cũng bộc lộ những khiếm khuyết