Tóm tắt
Mục tiêu xây dựng nông thôn mới mà Đảng và Nhà nước ta đề ra thực chất là xây dựng các làng,
xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường văn hóa lành mạnh. Vì vậy, đi đôi với nâng cao
đời sống kinh tế - xã hội, việc nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống có ý nghĩa rất quan trọng. Việt Nam là đất nước của 54 dân tộc, trong đó 53 dân tộc
thiểu số hầu hết sinh sống ở vùng nông thôn nơi biên viễn xa xôi của Tổ quốc. Vậy nên, bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số có vai trò vô cùng quan trọng đối với công cuộc xây dựng
nông thôn mới nói riêng và trong sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam nói chung.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 15 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong xây dựng nông thôn mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 32 (Tháng 6 - 2020)26
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
CHỬ THỊ THU HÀ*
Tóm tắt
Mục tiêu xây dựng nông thôn mới mà Đảng và Nhà nước ta đề ra thực chất là xây dựng các làng,
xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường văn hóa lành mạnh. Vì vậy, đi đôi với nâng cao
đời sống kinh tế - xã hội, việc nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống có ý nghĩa rất quan trọng. Việt Nam là đất nước của 54 dân tộc, trong đó 53 dân tộc
thiểu số hầu hết sinh sống ở vùng nông thôn nơi biên viễn xa xôi của Tổ quốc. Vậy nên, bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số có vai trò vô cùng quan trọng đối với công cuộc xây dựng
nông thôn mới nói riêng và trong sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam nói chung.
Từ khóa: Bảo tồn, phát huy, giá trị văn hóa, xây dựng nông thôn mới, dân tộc thiểu số
Abstract
The goal of new rural development set by the Party and Government means building villages,
communes and hamlets with well-fed, civilized life and healthy cultural environment. Therefore, along
with improving the social and economic life, improving the cultural and spiritual life, preserving and
promoting the traditional cultural values are very important. Vietnam is a country with 54 ethnic
groups, of which 53 ethnic minorities live mostly in rural areas where are almost located at the remote
borders of the country. So preserving and promoting the cultural values of ethnic minorities plays an
extremely important role in the process of new rural development in particular and in the cause of
national development in Vietnam in general.
Keywords: Preservation, promotion, cultural values, new rural development, ethnic minorities
1. Sự cần thiết phải bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa của các dân tộc thiểu số trong xây
dựng nông thôn mới
Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước” [2]. Xuất phát từ
nhận thức đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
nhiệm vụ thực hiện Chương trình xây dựng
nông thôn mới nhằm phục vụ yêu cầu phát
triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sẽ không có
một nước công nghiệp nếu nông nghiệp và
nông thôn còn lạc hậu và đời sống nhân dân
còn thấp kém. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Đảng
và Nhà nước ta hướng tới mãi chỉ là khẩu hiệu
nếu đời sống vật chất và tinh thần của già nửa
dân số của đất nước sống nơi nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo không được cải
thiện và nâng cao. Chính vì vậy, để Nghị quyết
số 26-NQ/TW của Đảng đi vào hiện thực, ngày
4/6/2010, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới đã được Thủ tướng Chính
phủ chính thức phê duyệt; cùng với đó, Bộ tiêu
chí quốc gia xây dựng nông thôn mới với 19 * TS., Khoa Văn hóa dân tộc thiểu số, Trường ĐHVHHN
27Số 32 (Tháng 6 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tiêu chí được ban hành. Mục tiêu hướng đến là
một nông thôn mới với đời sống kinh tế phát
triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân
nông thôn được nâng cao; bộ mặt nông thôn
được xây dựng theo quy hoạch với cơ cấu hạ
tầng hiện đại, môi trường cảnh quan xanh -
sạch - đẹp; trật tự an ninh được giữ vững; dân
trí nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được
giữ gìn và phát huy Như vậy, nhìn một cách
tổng thể, Chương trình xây dựng nông thôn
mới hướng đến mục tiêu cải thiện toàn diện
bộ mặt nông thôn Việt Nam để các vùng nông
thôn trên đất nước ta trở thành những miền
quê đáng sống, cả về đời sống vật chất và
hưởng thụ tinh thần.
Đi đôi với việc nâng cao đời sống kinh tế
xã hội, việc nâng cao đời sống văn hóa tinh
thần, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống trong công cuộc xây dựng nông
thôn mới có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, xây
dựng văn hóa nông thôn cần được xác định là
trọng tâm của quá trình xây dựng nông thôn
mới. Xây dựng văn hóa nông thôn mới chính là
góp phần xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa của 54
dân tộc cùng chung sống trên dải đất hình
chữ S. Đặc trưng của văn hóa Việt Nam chính
là sự thống nhất trong đa dạng các sắc màu
văn hóa của 54 dân tộc, trong đó không thể
không nói tới những giá trị văn hóa độc đáo
của 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Giá trị văn
hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số có
thể ví như những sợi chỉ màu lấp lánh cùng
dệt nên tấm thảm rực rỡ của nền văn hóa Việt
Nam. Và hơn thế, bản sắc văn hóa của các dân
tộc thiểu số còn tạo nên sức hấp dẫn lạ kỳ cho
du khách quốc tế khi đặt chân đến Việt Nam.
Chính vì vậy, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa của các dân tộc thiểu số trong xây dựng
nông thôn mới không chỉ là giữ gìn hồn cốt
cho các bản làng vùng nông thôn miền núi nói
riêng và cho đất nước nói chung, mà còn góp
phần quan trọng làm thay đổi tình hình kinh
tế - xã hội của các địa phương, nâng cao thu
nhập cho người dân nếu chính quyền và cộng
đồng biết khai thác hiệu quả giá trị văn hóa
truyền thống của đồng bào các dân tộc.
2. Thực trạng bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa các dân tộc thiểu số trong phong trào
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 -
2020
Để thực hiện xây dựng đời sống văn hóa
nông thôn mới, trong đó giá trị, bản sắc văn
hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc
thiểu số được bảo tồn và phát triển, thời gian
qua, Đảng và Nhà nước ta thể hiện sự quan
tâm sâu sắc tới với đề này. Ngày 6/5/2009, Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 581/
QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển
văn hóa đến năm 2020, trong đó, xác định một
trong những mục tiêu quan trọng là: Tiếp tục
đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy
các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, vừa phát
huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo
của văn hóa các dân tộc anh em, vừa kiên trì
củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa
dạng của văn hóa Việt Nam, tập trung xây dựng
những giá trị văn hóa mới, đi đôi với việc mở
rộng và chủ động trong giao lưu quốc tế, tiếp
nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm
phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, bắt kịp
sự phát triển của thời đại. Tiếp đó, nhiều đề án
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như: “Đề
án Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu
số Việt Nam đến năm 2020” (theo Quyết định số
1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011); “Đề án bảo tồn,
phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các
dân tộc thiểu số Việt Nam” (theo Quyết định số
1558/QĐ-TTg ngày 5/8/2016); “Đề án kiểm kê,
sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản
văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc
thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020” (theo
Quyết định số 2493/QĐ-TTg ngày 22/12/2016);
Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg ngày 18/3/2011
của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với
người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu
số, nhằm hướng đến mục tiêu bảo tồn, phát
huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân
tộc thiểu số trong bối cảnh hiện nay.
Là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về công tác văn hóa,
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) cũng
đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn các địa
phương trong công tác xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở. Ngày 21/1/2011, Bộ VHTTDL ban
Số 32 (Tháng 6 - 2020)28
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
hành Thông tư số 04/2011/BVHTTDL quy định
về việc thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang, lễ hội; ngày 18/1/2019 Bộ
trưởng Bộ VHTTDL ra Quyết định số 209/QĐ-
BVHTTDL phê duyệt Đề án Bảo tồn, phát huy
trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Các địa phương
trong cả nước cũng kịp thời xây dựng, ban
hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, triển khai
thực hiện tiêu chí 06 (về cơ sở vật chất văn hóa)
và tiêu chí 16 (về văn hóa) trên địa bàn quản
lý. Công tác tuyên truyền được tăng cường với
nhiều hình thức phong phú, đa dạng, các giải
pháp bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống
được triển khai; từ đó tác động đến nhận thức
của các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành,
đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân về trách
nhiệm, nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa
nông thôn mới phong phú, lành mạnh; giữ
gìn, phát huy những tinh hoa văn hóa dân tộc
trong cuộc sống hiện nay. Nhiều nét đẹp văn
hóa dân tộc trong thời gian qua được phục hồi
và phát huy.
Tính từ thời điểm Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới vào năm 2010 cho đến nay,
Chương trình đã đi được 2 chặng đường (giai
đoạn 2010 - 2016 và giai đoạn 2016 - 2020).
Trải qua chặng đường 10 năm, phong trào
“Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”
đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp các địa phương
trên cả nước, tạo ra nhiều thay đổi tích cực đối
với diện mạo vùng nông thôn, đặc biệt là vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Riêng đối với tiêu
chí văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới,
theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn [4], kết quả của phong trào đã
tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đa
màu sắc trong đời sống văn hóa tinh thần của
người dân nông thôn, góp phần gìn giữ, bảo
tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Các địa phương
đã quan tâm hơn đến nâng cao hiệu quả hoạt
động của các thiết chế văn hóa cơ sở1 hoặc
theo mô hình xã hội hóa các khu trung tâm thể
thao - giải trí2; hoặc theo hướng giao cho cộng
đồng quản lý, vận hành. Một số địa phương
đã tổ chức các tuyến du lịch trải nghiệm làng
quê nông thôn mới gắn với giữ gìn văn hóa
truyền thống. Nhiều lễ hội truyền thống lành
mạnh được phục hồi, góp phần gìn giữ, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời gắn
kết mối quan hệ cộng đồng, bảo vệ bản làng,
bảo vệ rừng và các tài nguyên thiên nhiên
của đất nước. Các trò chơi dân gian như ném
còn, ném pao, đánh yến, đẩy gậy, kéo co, đi cà
kheo, đi xe cút kít, chơi quay, được các địa
phương đưa vào thành nội dung thi đấu trong
các hội thao, hội diễn các cấp và trở thành
môn ngoại khóa trong nhiều trường học. Các
câu lạc bộ (CLB) văn nghệ như hát then, đàn
tính, hát dân ca, được thành lập tới cấp xã,
thôn như: CLB hát then - đàn tính của dân tộc
Tày, Nùng; hát Soong cộ của dân tộc Sán Dìu;
hát Sình của người Cao Lan; hát Páo Dung của
dân tộc Dao, múa khèn của người Hmông, xòe
của dân tộc Thái; sôang, cồng chiêng của các
dân tộc Tây Nguyên; nhạc ngũ âm của người
Khmer; múa Lăm vông của người Lào, được
thành lập ở nhiều địa phương đã thu hút mọi
lứa tuổi, giới tính tham gia. Các nghề thủ công
truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số
cũng được khuyến khích khôi phục vừa giúp
bảo tồn vốn tri thức tộc người, vừa góp phần
tăng thu nhập, tạo công ăn việc làm cho người
dân để họ gắn bó lâu dài với quê hương, xứ sở.
Theo tư liệu điền dã của tác giả bài viết tại
xã Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - nơi có
98% dân số là người Dao Quần chẹt sinh sống,
từ khi địa phương triển khai chương trình xây
dựng nông thôn mới, không chỉ bộ mặt trụ sở
UBND xã Ba Vì và diện mạo cảnh quan 3 thôn
người Dao (Hợp Nhất, Hợp Sơn, Yên Sơn) đều
thay đổi khang trang, sạch đẹp, mà nhiều bản
sắc văn hóa truyền thống của người Dao nơi
đây cũng được khôi phục, gìn giữ như: Lễ cầu
bình an (niêu dụ nhắt), lễ tạ ơn (bủa phẳn chiu),
lễ cúng mụ (xíp pèng miến), lễ cúng vía (chua
vần), lễ sinh nhật (xuốt xiển hoi), hôn nhân
theo phong tục người Dao (chìn cha), đám
tang (phủng kèn tạy/bùa đòi), lễ cấp sắc (chẩu
đàng), tết nhảy (nhiàng chầm đao), tiếng nói,
trang phục, nghề thuốc nam truyền thống...
Để thực hiện xây dựng nông thôn mới, xây
dựng đời sống văn hóa mới, chủ trương bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống
được đưa vào Nghị quyết của Đảng ủy xã Ba Vì
29Số 32 (Tháng 6 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
và vào nội dung các cuộc họp thôn, xã; các tổ
chức chính trị - xã hội như Hội phụ nữ, Đoàn
thanh niên,... đang tìm biện pháp để tiếp tục
tuyên truyền hiệu quả đối với người dân trong
việc khôi phục và phát huy bản sắc văn hóa
truyền thống. Hội người cao tuổi động viên
hội viên mặc trang phục truyền thống khi đi
họp. Một số dòng họ người Dao nhắc nhở con
cháu mặc trang phục truyền thống trong các
ngày lễ của dòng họ Cho đến nay, dù xã Ba
Vì chưa hoàn thành được 19 tiêu chí trong xây
dựng nông thôn mới và mặc dù đang sống tại
một địa bàn chịu tác động mạnh mẽ của quá
trình đô thị hóa, nhưng cộng đồng người Dao
nơi đây ngày càng có ý thức trong việc bảo tồn
văn hóa tộc người.
Những biểu hiện đáng mừng trên không
phải là duy nhất đối với cộng đồng người dân
tộc thiểu số ở thành phố Hà Nội, mà còn phổ
biến ở nhiều địa phương trong cả nước. Mọi
cấp chính quyền từ tỉnh đến xã, thôn đều nhận
thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân
tộc thiểu số. Chính vì vậy, nhiều di sản văn hóa
quý báu của đồng bào có điều kiện được tôn
vinh, nhân rộng trong cộng đồng. Tiêu biểu
như huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh với trên
96% dân số là đồng bào dân tộc, nơi đây, sau
gần 10 năm triển khai Chương trình xây dựng
nông thôn mới, một đời sống văn hóa nông
thôn đậm đà bản sắc văn hóa của các dân tộc
anh em sinh sống trên địa bàn huyện ngày
thêm khởi sắc. Nhiều môn thể thao, trò chơi
dân gian của đồng bào các dân tộc trong toàn
huyện được quan tâm phục hồi. Các CLB văn
nghệ được thành lập tại 8/8 xã, thị trấn trong
toàn huyện, trong đó chú trọng nội dung sinh
hoạt là truyền dạy các làn điệu dân ca đặc
trưng. Ủy ban nhân dân huyện Bình Liêu có
chính sách hỗ trợ hàng năm cho mỗi CLB văn
nghệ cấp xã là 30 triệu để đảm bảo cho hoạt
động tập luyện, biểu diễn, giao lưu. Các lễ hội
truyền thống (hội đình Lục Nà, hội tháng Ba,
hội Kiêng gió) và lễ hội mới hình thành (hội
hoa Sở) được tổ chức đúng quy định; phù hợp
với thuần phong mỹ tục địa phương; phần hội
diễn ra phong phú, hấp dẫn nhờ việc khai thác
các trò chơi, dân nhạc, dân vũ đặc trưng của
cộng đồng các dân tộc, đã tạo được sức lan
tỏa, lôi cuốn, góp phần thu hút đông đảo nhân
dân và du khách tham gia [9, tr.131-132].
Đó là một số minh chứng cho thấy sự nỗ
lực của các địa phương trong công cuộc bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa tộc người, xây
dựng đời sống văn hóa nông thôn mới, từng
bước đưa văn hóa thực sự trở thành nền tảng
tinh thần của xã hội, góp phần xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc theo tinh thần của Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII).
Tuy vậy, công cuộc xây dựng văn hóa nông
thôn mới, đặc biệt, sự nghiệp bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống cũng gặp
những thách thức không nhỏ. Sự biến đổi và
mai một bản sắc văn hóa đang là nguy cơ đối
với nhiều tộc người, kể cả những tộc người cư
trú nơi vùng biên viễn xa xôi của tổ quốc như
huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh. Đồng bào
các dân tộc thiểu số nơi đây đã và đang chịu
tác động của kinh tế thị trường, của toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế nên nhiều giá trị văn
hóa truyền thống bị biến đổi nhanh chóng.
Điều dễ nhận thấy nhất là sự thay đổi về kiến
trúc nhà ở truyền thống của đồng bào. Những
ngôi nhà gạch đất của người Tày, người Sán
Chỉ, nhà trình tường của người Dao đã tồn tại
từ nhiều đời nay trở nên không đạt tiêu chuẩn
theo tiêu chí về nhà ở. Có thể nói, nhà ở dân cư
là một trong những tiêu chí khó đối với nhiều
địa phương, đặc biệt là các xã có nhiều đồng
bào dân tộc ở các thôn bản miền núi như Bình
Liêu. Nhiều gia đình có tâm lý ỷ lại sự hỗ trợ
của nhà nước; những ngôi nhà truyền thống
không được tôn tạo, tu sửa mà bị phá đi xây
bằng gạch bê tông, không có mẫu thiết kế đặc
thù. Điều đó làm mất đi nét đặc trưng văn hóa
về kiến trúc nhà ở truyền thống trên địa bàn
huyện. Đi đến các thôn bản, dù là những nơi
có 100% đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống,
nhưng nếu không được giới thiệu thì khó có
thể phát hiện ra đó là thôn/bản của người Dao,
người Tày hay người Sán Chỉ vì nét đặc trưng
văn hóa về nhà ở của từng dân tộc đã không
còn. Cùng với sự biến đổi của ngôi nhà truyền
thống là sự biến đổi tập quán trong sinh hoạt
Số 32 (Tháng 6 - 2020)30
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
như: cách chế biến thức ăn, tổ chức bữa ăn
trong nhà bếp, cách bảo quản hạt giống và
lương thực, thực phẩm... Một số tập quán tốt
đẹp trước kia nay đã mất, như các sinh hoạt
bên bếp lửa: hát then, kể chuyện cổ tích... Vai
trò của già làng, trưởng bản trong việc trao
truyền các giá trị văn hóa không còn thấy rõ
nét khi thực hiện nhất thể hóa chức danh Bí
thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn/bản. Việc
tìm một người đủ tiêu chuẩn vừa là bí thư chi
bộ, trưởng bản, vừa nắm vững phong tục,
tập quán và các giá trị văn hóa truyền thống
của cộng đồng vẫn còn gặp nhiều hạn chế [9,
tr.131-132].
Một biểu hiện biến đổi và mai một văn hóa
truyền thống rõ nét mà nhiều địa phương,
nhiều tộc người đang gặp phải, đó là trang
phục truyền thống. Dù trang phục truyền
thống ngày càng được người dân ý thức rõ
hơn về vai trò trong nhận diện bản sắc tộc
người; được người dân mặc nhiều hơn trong
những ngày lễ tết truyền thống, nhưng nguy
cơ biến đổi, thậm chí mai một bản sắc đối với
trang phục truyền thống vẫn đang diễn ra. Sự
biến đổi được thể hiện trong quá trình làm ra
bộ trang phục truyền thống, trong kiểu dáng
và cách trang trí trang phục. Đặc biệt, một
số dân tộc quá ít người với dân số chưa đến
1.000 người như Rơ Măm, Ơ Đu, Thổ, Chứt,...
không thấy bóng dáng của trang phục truyền
thống [10, tr.52]. Chia sẻ về những khó khăn
gặp phải trong việc sưu tầm trang phục truyền
thống của người Dao Quần Chẹt, ông Lê Khắc
Nhu - Trưởng phòng Dân tộc huyện Ba Vì cho
biết: “Chúng tôi đặt một bà thợ thêu ở thôn Yên
Sơn làm bộ quần áo xưa của nam giới Dao, khi
đến lấy thì phàn nàn rằng chiếc cổ áo này phải
là cổ đứng, hình tròn, nhưng bà nói áo của đàn
ông Dao Ba Vì vẫn mặc như vậy. Chúng tôi muốn
lưu giữ chiếc quần xưa của đàn ông Dao nhưng
chẳng ai còn. Chúng tôi phải vào tận Huế, đặt
người ta làm chiếc quần vải tấm trắng, may kiểu
chân què, cạp lá tọa” [Tài liệu PVS, 2014]. Chiếc
quần chẹt nữ của người Dao ở Ba Vì nay được
may cải tiến theo kiểu bổ đũng nên khoảng
cách hai ống thu hẹp lại chỉ khoảng 900, giống
như chiếc quần “ngố” của thanh niên hiện nay.
Váy của một số thầy cúng chỉ khâu ghép bởi
4 đến 5 mảnh vải thay vì 7 mảnh tượng trưng
cho 7 thánh sư như trước kia... Ở nhiều địa
phương như Thái Nguyên, Điện Biên, Lai Châu,
Sơn La, Quảng Trị, Kon Tum, Phú Yên,... đều có
chung thực trạng nhiều bộ trang phục sản
xuất ra được cải biên khác xa với trang phục
truyền thống về chất liệu, màu sắc, cách thức
cắt may. Hình ảnh các đồ vật thời hiện đại
cũng đã xuất hiện trên các môtip hoa văn của
trang phục dân tộc Bru - Vân Kiều và Pa Cô ở
Quảng Trị như máy bay, tên lửa, cây cột điện...
[11, tr.111]. Việc sử dụng trang phục lại càng
biến đổi. Hiện nay, rất nhiều tộc người thiểu
số ở các địa phương trong cả nước đều mặc
trang phục hàng ngày theo kiểu Âu hóa như
người Kinh. Họ chỉ mặc trang phục truyền
thống trong các dịp lễ tết theo phong tục của
cộng đồng, nhưng thường thêm hoặc bớt đi
một vài thành tố. Tuy nhiên, sự biến đổi và mai
một cần lưu tâm hơn hết đó là một bộ phận
không nhỏ người dân, nhất là lớp trẻ không
thích mặc quần áo truyền thống, thậm chí
cảm thấy không tự tin khi mặc quần áo