Tóm tắt. Trong quá trình học tập hiện nay của sinh viên trong các nhà trường Đại học, tính
tự lực học tập là một yếu tố hết sức quan trọng, nhờ có tính tự lực học tập mà người sinh
viên luôn tích cực, chủ động và sáng tạo, đây chính là yếu tố quyết định chất lượng học tập
của người sinh viên nói riêng và chất lượng đào tạo trong các nhà trường Đại học. Không
những thế, tính tự học còn giúp cho người sinh viên thích ứng với phương thức đào tạo theo
tín chỉ và đáp ứng yêu cầu dạy học hiện nay. Bài báo đề xuất 5 biện pháp phát huy tính
tự lực học tập cho sinh viên bao gồm: 1) Nâng cao nhận thức tính tự lực học tập cho sinh
viên; 2) Cải tiến nội dung bài giảng, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kích thích
sinh viên tự lực học tập; 3) Hướng dẫn các kĩ năng tự học cho sinh viên; 4) Tổ chức các
hoạt động tự học cho sinh viên; 5) Tổ chức cho sinh viên làm nghiên cứu khoa học
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện pháp phát huy tính tự lực học tập cho sinh viên trường Đại học Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0062
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 6, pp. 165-172
This paper is available online at
BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TỰ LỰC HỌC TẬP
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHÁNH HÒA
Hoàng Thị Ngoan, Nguyễn Thị Vân Anh
Khoa Sư phạm, Trường Đại học Khánh Hòa
Tóm tắt. Trong quá trình học tập hiện nay của sinh viên trong các nhà trường Đại học, tính
tự lực học tập là một yếu tố hết sức quan trọng, nhờ có tính tự lực học tập mà người sinh
viên luôn tích cực, chủ động và sáng tạo, đây chính là yếu tố quyết định chất lượng học tập
của người sinh viên nói riêng và chất lượng đào tạo trong các nhà trường Đại học. Không
những thế, tính tự học còn giúp cho người sinh viên thích ứng với phương thức đào tạo theo
tín chỉ và đáp ứng yêu cầu dạy học hiện nay. Bài báo đề xuất 5 biện pháp phát huy tính
tự lực học tập cho sinh viên bao gồm: 1) Nâng cao nhận thức tính tự lực học tập cho sinh
viên; 2) Cải tiến nội dung bài giảng, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kích thích
sinh viên tự lực học tập; 3) Hướng dẫn các kĩ năng tự học cho sinh viên; 4) Tổ chức các
hoạt động tự học cho sinh viên; 5) Tổ chức cho sinh viên làm nghiên cứu khoa học
Từ khóa: Biện pháp, học tập, tính tự lực, kĩ năng tự học.
1. Mở đầu
Vấn đề tự học đóng vai trò quan trọng trong việc giúp sinh viên lĩnh hội kiến thức môn học
cũng như phát huy năng lực của bản thân trên cơ sở chính là sự hướng dẫn của giảng viên. Điều
này, sẽ giúp các em nắm bắt toàn diện những kiến thức chuyên môn ở bậc đại học, do đó sinh viên
cần nỗ lực trong hoạt động học tập, đặc biệt phải dành thời gian cho việc tự học, tự nghiên cứu.
Tính tự lực học tập là một phẩm chất quan trọng của nhân cách, được hình thành trong quá
trình hoạt động của con người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ, đặc biệt là lứa tuổi sinh viên. Tính tự
lực học tập được phát huy tối đa thì năng lực nhận thức sẽ được phát triển giúp người sinh viên
lĩnh hội tri thức khoa học một cách nhanh chóng và bền vững. Giá trị tự lực học tập là giá trị cao
cả mà mỗi người sinh viên cần hình thành và phát huy để đáp ứng yêu cầu của việc học tập trong
các nhà trường đại học hiện nay.
Bàn về vấn đề tính tự lực, tự lực học tập đã có một số công trình nghiên cứu trên thế giới và
Việt Nam. Các nhà Tâm lí học, Giáo dục học của Liên xô như P. Rubinsky, P.P.Côdrachiep [8] . . .
đã đi sâu nghiên cứu về tính tự lực trong công tác giáo dục, họ cho rằng tính tự lực là phẩm chất
nhân cách được hình thành và thể hiện trong hoạt động thực tiễn, nó vừa là điều kiện và là kết quả
của quá trình nhận thức . E.I. Golant [8] cho rằng tính tự lực của học sinh được thể hiện ở nhiều
khía cạnh khác nhau như: tự lực tổ chức kĩ thuật, tự lực trong hoạt động thực tiễn, tự lực trong hoạt
động nhận thức. Để hình thành và phát huy tính tự lực cho con người cần tiến hành nghiên cứu
Ngày nhận bài: 20/3/2016. Ngày nhận đăng: 20/6/2016.
Liên hệ: Hoàng Thị Ngoan, e-mail: hoangngoancdsp@gmail.com
165
Hoàng Thị Ngoan, Nguyễn Thị Vân Anh
trong quá trình giảng dạy các môn khoa học trong các nhà trường. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Bảo [1]
quan tâm rất nhiều đến vấn đề giáo dục tính tự lực nhận thức, ông đã phát triển lí thuyết về tính tự
lực, khái quát chúng ở nhiều góc độ khác nhau. Ông cho rằng tính tự lực nhận thức là một trong
những phẩm chất quan trọng của nhân cách, là hạt nhân của tính tự lực, bản chất của nó là sự sẵn
sàng tâm lí cho sự tự học, và nó là điều kiện đảm bảo cho sự thành công trong học tập và trong
cuộc sống của mỗi người. Tác giả Nguyễn Thanh Huyền [8] đã nghiên cứu về giáo dục tính tự lực
cho trẻ lứa tuổi mầm non, cho rằng tính tự lực là một phẩm chất nhân cách quan trọng của con
người, được hình thành từ lứa tuổi mầm non thông qua hoạt động của trẻ. Tác giả Lê Trọng Dương
(2006) “Nghiên cứu việc đổi mới PPDH ở trường CĐSP để rèn luyện kĩ năng tự học, tự nghiên
cứu cho SV, trên cơ sở đó mà hình thành, phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên
ngành Toán hệ CĐSP vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy
học Toán và đào tạo giáo viên Toán THCS. III [4]. Trong một số công trình nghiên cứu về tự học
và tổ chức hoạt động tự học thì tính tích cực, tính độc lập, động cơ học tập của người học giữ một
vai trò rất quan trọng đối với chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học, Nguyễn Ngọc Bảo [1],
Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức [7].
Mặc dù có nhiều hướng nghiên cứu khác nhau nhưng các công trình khoa học trên đây chưa
đề cập đến các biện pháp huy tính tự lực học tập cho sinh viên. Trong bài viết này, chúng tôi xin
đưa ra một số biện pháp phát huy tính tự lực học tập của người sinh viên, nhờ đó người sinh viên
thích ứng với dạy học theo hướng phát triển năng lực hiện nay.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm tính tự lực và tự lực học tập
Khái niệm tính tự lực. Tác giả Nguyễn Thanh Huyền (2004) [8] đã đưa ra khái niệm về tính
tự lực: “Tính tự lực là một phẩm chất nhân cách, được hình thành trong quá trình hoạt động, thể
hiện mối quan hệ của cá nhân với các sự vật hiện tượng, với người khác và với bản thân. Nó đặc
trưng cho thái độ không phụ thuộc, sẵn sàng chịu trách nhiệm và niềm tin vào năng lực của mình,
thói quen tự giác trong việc đặt mục đích, nhiệm vụ và tự điều khiển, kiểm tra bản thân, sử dụng
tối đa các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, có sự nỗi lực cao về trí tuệ, thể lực và ý chí nhằm đạt được
mục đích đã định nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và xã hội”.
Như vậy, tính tự lực có liên quan chặt chẽ đến biểu hiện tích cực, ý chí, tình cảm và các quá
trình nhận thức.
Khái niệm tính tự lực học tập. Tính tự lực học tập là một phẩm chất nhân cách quan trọng
của con người được hình thành trong quá trình hoạt động của chủ thể. Người học xác định mục
đích, động cơ học tập đúng đắn, có năng lực học tập và tự tổ chức học tập cho bản thân, người học
có sự nỗ lực cao về trí tuệ, thể lực và ý chí nhằm lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo để thỏa
mãn nhu cầu nhận thức của bản thân.”
Từ khái niệm tính tự lực học tập, chúng ta có thể thấy rằng trong đó thể hiện sự thống nhất
giữa phẩm chất và năng lực, giữa ý thức, tình cảm và hành động, giữa tri thức và phương pháp hoạt
động tự lực học tập.
2.2. Cấu trúc tính tự lực học tập
Theo Nguyễn Ngọc Bảo (1995) [1], tính tự lực học tập có những thành phần cấu trúc gần
giống tính độc lập nhận thức, bao gồm các thành phần (1) Động cơ học tập: Điều này thể hiện ở
nhu cầu học tập, hứng thú học tập, động cơ có tính chất xã hội và thế giới quan. Nếu thiếu động
cơ học tập thì không thể diễn ra hoạt động nhận thức trong học tập. (2) Năng lực học tập: Người
166
Biện pháp phát huy tính tự lực học tập cho sinh viên trường Đại học Khánh Hòa
học phải có những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết, có những tố chất quan trọng làm cơ sở hoạt
động học tập bằng sự phát triển trí tuệ, phương pháp suy nghĩ. (3) Tổ chức học tập: Sự tổ chức là
sự thống nhất giữa phương pháp suy nghĩ và phương pháp lao động chung của hoạt động tự lực
học tập. Phương pháp lao động chung bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức lao động học tập và tự
kiểm tra đánh giá. (4) Niềm tin, hành động ý chí: Thể hiện sự tự tin, tính mục đích kiên trì và tinh
thần khắc phục khó khăn nhằm thực hiện nhiệm vụ học tập.
Bốn thành phần cấu trúc của tính tự lực học tập đó liên hệ mật thiết với nhau, phụ thuộc,
quy định lẫn nhau. Thiếu một trong những thành phần đó thì không thể biểu hiện được tính tự lực
học tập.
2.3. Vai trò của tính tự lực học tập
Tính tự lực học tập có vai trò; Giúp sinh viên có ý thức tự giác trong học tập, tự xác định
mục đích, lập kế hoạch, có thái độ học tập tích cực; Nhờ có tự lực học tập sinh viên tự lĩnh hội được
tri thức, kĩ năng. Đồng thời những tri thức, kĩ năng đó do tự lực học tập mang lại có ý nghĩa sâu
sắc và bền vững; Rèn luyện cho sinh viên thói quen làm việc độc lập, thói quen tự học, tự nghiên
cứu khoa học, thích nghi với sự thay đổi của môi trường sống, môi trường làm việc, thích ứng với
yêu cầu của xã hội hiện đại; Giúp cho sinh viên hình thành và pháp triển nhu cầu, động cơ, hứng
thú trong học tập, trên cơ sở đó phát huy ý thức tự giác học tập, nâng cao ý chí và nghị lực vượt
qua những khó khăn cản trở để tiếp thu tri thức một cách tốt nhất.
Như vậy, vai trò của tính tự lực học tập đối với quá trình học tập của sinh viên chính là vai
trò của từng yếu tố cấu thành nên phẩm chất ấy.
2.4. Thực trạng tự lực học tập của sinh viên
Để có thể đưa ra các biện pháp phát huy tính tự lực học tập cho sinh viên, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu thực trạng tính tự lực học tập của sinh viên hiện nay. Qua tiến hành khảo sát trên
300 sinh viên năm 1 thuộc hệ Cao đẳng sư phạm trường đại học Khánh Hòa, chúng tôi thấy tính
tự lực học tập của sinh viên chưa cao, cụ thể: Sinh viên còn nhận thức chưa đúng về tính tự lực
học tập, chưa thấy rõ tầm quan trọng của tính tự lực học tập, cụ thể: Khi được hỏi về mức độ quan
trọng của tính tự lực học tập đối với sinh viên thì có tới 21,76% sinh viên cho rằng bình thường và
không quan trọng. Thái độ đối với tính tự lực học tập của sinh viên: 22,1% sinh viên không thích
và chán khi học một mình. Biểu hiện hành vi về tính tự lực học tập của sinh viên được thể hiện các
em còn thiếu những kĩ năng cần thiết cho hoạt động tự học: Tự xây dựng kế hoạch học tập: 33%
sinh viên ít khi và không bao giờ lập kế hoạch học tập; tự tìm tài liệu học thêm: 54,01% sinh viên
ít khi tìm tài liệu đọc thêm; chỉ có 47,85% sinh viên tự kiểm tra, đánh giá kiến thức đã tiếp thu
được một cách thường xuyên, ở mức độ ít khi và không bao giờ chiếm tới trên 50%.
2.5. Biện pháp pháp phát huy tính tự lực học tập cho sinh viên trường Đại học
Khánh Hòa
2.5.1. Biện pháp pháp phát huy tính tự lực học tập cho sinh viên trường Đại học Khánh
Hòa
Biện pháp 1. Nâng cao nhận thức tính tự lực học tập cho sinh viên
Mục đích: giúp người học có cơ sở nhận thức đúng đắn về tính tự lực học tập, từ đó có ý chí
nỗ lực cao trong quá trình học tập ở trường Đại học.
Nội dung của biện pháp: Sinh viên nắm bắt được những thông tin cần thiết, quan trọng về
mục tiêu đào tạo ở trường Đại học, về nội dung kiến thức từng môn học đối với bản thân người
học.
167
Hoàng Thị Ngoan, Nguyễn Thị Vân Anh
Cách thức tiến hành: Tổ chức “Tuần sinh hoạt công dân học sinh, sinh viên” đầu năm cho
sinh viên mới vào trường, qua đó giúp sinh viên hiểu biết khái quát những nội dung cơ bản của quá
trình đào tạo như; (1) hiểu biết về nội quy, quy chế học tập, rèn luyện, kiểm tra, thi cử. (2) Hiểu
biết về truyền thống của nhà trường. (3) Có nhận thức đúng đắn về ngành, nghề đào tạo, mục tiêu
đào tạo, quyền lợi, nghĩa vụ của người sinh viên trong nhà trường cao đẳng, đại học. (4) Xác định
được vai trò quyết định của chủ thể trong quá trình đào tạo để sinh viên có hướng xác định phương
pháp tự học, tự nghiên cứu.
Tác động đến nhận thức tự lực học tập của sinh viên trong quá trình dạy học các môn học
trong nhà trường. Theo Đặng Vũ Hoạt [7], quá trình dạy học là một quá trình mà trong đó dưới sự
tổ chức, điều khiển, lãnh đạo của người giáo viên làm cho người học tự giác, tích cực, tự tổ chức,
tự diều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Như
vậy, với tư cách là người tổ chức hoạt động dạy học trên lớp, người giáo viên cần giúp cho mỗi
sinh viên xác định được vai trò của chủ thể và nhiệm vụ mục đích học tập cụ thể. Làm sao để sinh
viên nhận thức rõ sau mỗi giờ học, sau một thời gian nhất định, họ sẽ đạt được một mục đích nào
đó. Vì vậy, cần tác động đến nhận thức của mỗi sinh viên, để họ có thể tự hình thành nhu cầu đòi
hỏi, xác định mục đích, có hứng thú tìm hiểu kiến thức, biết tập trung suy nghĩ, hành động nhằm
lĩnh hội tri thức tốt nhất. Cụ thể, mỗi giáo viên khi bắt đầu dạy học môn học, chủ đề, bài học cần
cho sinh viên nắm rõ mục tiêu của môn học, chủ đề, bài học, những yêu cầu cần đạt được sau khi
học, những tài liệu tham khảo, cách thức kiểm tra, đánh giá... Giáo viên phải tổ chức quá trình dạy
học trên tinh thần dân chủ, thoải mái, thẳng thắn, nghiêm túc.
Tổ chức sinh hoạt chuyên đề về phương pháp học tốt cho sinh viên. Đây là cách tác động
rất tốt để giúp sinh viên có nhận thức đúng về tự lực học tập và hoạt động tự học của mình. Khoa
chủ động phối hợp với phòng công tác sinh viên, Đoàn TNCS, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ
môn thường xuyên hướng dẫn, tổ chức báo cáo điển hình học tập, trao đổi kinh nghiệm về phương
pháp học tập, phương pháp tự học, cách thức tổ chức quá trình tự học ở trên lớp và ngoài giờ học
lên lớp, tự học ở nhà, ở kí túc xá, ở thư viện có hiệu quả cao.
Biện pháp 2. Cải tiến nội dung bài giảng, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kích
thích sinh viên tự lực học tập
Mục đích: Tạo ra nhu cầu nhận thức, kích thích hứng thú học tập của sinh viên. Sau giờ học
trên lớp, sinh viên phải chủ động tìm kiếm, lựa chọn các cách thức lĩnh hội kiến thức thêm nhằm
đáp ứng nhu cầu, lòng mong muốn học tập của mình.
Nội dung:Trên cơ sở nội dung, chương trình của từng môn, từng chương, từng bài, giáo viên
cần phải lựa chọn nội dung kiến thức trọng tâm, cơ bản và phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm
tạo ra nhu cầu, kích thích hứng thú học tập của sinh viên.
Cách thức tiến hành: Nội dung dạy học phải được giáo viên xác định phù hợp và đạt được
mục tiêu đào tạo của nhà trường. Nội dung bài giảng của giáo viên phải được cải tiến, bổ sung
thường xuyên, mạnh dạn loại bỏ những kiến thức lỗi thời, không phù hợp, nhằm tạo ra tiềm năng
lâu dài, kích thích sự nỗ lực lĩnh hội kiến thức của sinh viên, nội dung bài giảng không chỉ chứa
đựng những kiến thức cơ bản, trọng tâm phù hợp với chương trình đào tạo mà còn phải được phát
triển nâng cao. Mỗi bài giảng phải là một “hệ thống mở” về cả nội dung và phương pháp có thể
kích thích sinh viên hứng thú, tích cực tìm tòi, bổ sung nâng cao kiến thức.
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng “lấy sinh viên làm trung tâm”. Phương pháp
giảng dạy của giáo viên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phát huy tính tự lực học tập cho sinh
viên, với việc bồi dưỡng năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực tư duy sáng tạo của sinh
viên. Trong quá trình tổ chức dạy học, người giáo viên phải biết lựa chọn và vận dụng một cách
linh hoạt phương pháp thích hợp với lớp sinh viên của mình để phát huy năng lực của họ. Phương
pháp dạy học của giáo viên cần tạo điều kiện cho sinh viên chủ động tiếp xúc với các hiện tượng
168
Biện pháp phát huy tính tự lực học tập cho sinh viên trường Đại học Khánh Hòa
mà bài giảng đề cập đến, chủ động suy nghĩ, tìm tòi hướng giải quyết, vận dụng tích cực trong hoạt
động nhận thức.
Sự lựa chọn và vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trên lớp được xác định bằng
nhiều nhân tố khác nhau. Nó phụ thuộc vào nội dung của tài liệu học, mức độ phát triển và trình
độ của sinh viên trong lớp, chất lượng, việc có hay không tài liệu tham khảo và đồ dùng dạy học,
số lượng thời gian... Tuy nhiên trong những điều kiện khác nhau, khi làm việc với sinh viên cần ưu
tiên sử dụng phương pháp phát triển tính tích cực, tự lực nhận thức của sinh viên.
Biện pháp 3. Hướng dẫn các kĩ năng tự học cho sinh viên
Mục đích: Hình thành cho sinh viên hệ thống những kĩ năng cần thiết của hoạt động tự học,
trên cơ sở rèn luyện các kĩ năng tự học sẽ dần hình thành và phát triển tính tự lực học tập cho sinh
viên.
Nội dung: Hệ thống các kĩ năng tự học
Kĩ năng xây dựng kế hoạch. Kĩ năng bố trí, sắp xếp các công việc, biết phân phối giờ gian
cho từng công việc, xác định biện pháp và các hình thức tổ chức công việc, mức độ hoàn thành
chúng phù hợp với khả năng, hứng thú và đặc điểm riêng của từng cá nhân. Nó đảm bảo cho việc
tự học được tiến hành một cách khoa học và mang tính khả thi.
Kĩ năng nghe giảng, ghi chép. Trong giờ lên lớp, sinh viên phải nghe giảng, quan sát cách
nêu và trình bày vấn đề của giáo viên để lĩnh hội tri thức. Sinh viên khi nghe giảng phải huy hoạt
động trí tuệ và tính tích cực cá nhân để tiếp thu (phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát
hóa,...) tri thức và phương pháp mà giáo viên giảng dạy. Ghi chép bằng sự hiểu biết của mình,
không câu nệ, phụ thuộc vào ngôn ngữ truyền giảng của giáo viên. Bài ghi có thể sử dụng các kí
hiệu, lối viết tắt, không cần đẹp nhưng cần đủ ý, rõ ràng có hệ thống... nghe giảng và ghi chép
những thao tác diễn ra, đồng thời phải được phối hợp chặt chẽ không để lấn áp lẫn nhau.
Kĩ năng khái quát hóa, hệ thống hóa tri thức. Khái quát hóa, hệ thống hóa là những thao tác
hoạt động luôn diễn ra trong quá trình nhận thức. Chúng tôi muốn nhấn mạnh là để nâng cao chất
lượng tự học, sinh viên phải nỗ lực vận dụng hệ thống kĩ năng để khái quát, hệ thống từng vấn đề
của môn học, từng chương, từng bài.
Kĩ năng đọc sách và tài liệu tham khảo. Trong nhiệm vụ học tập, nghiên cứu ở trường đại
học mỗi sinh viên phải có ý thức đến việc đọc sách, tài liệu tham khảo. Việc đọc sách giúp cho
sinh viên hoàn thiện, khắc sâu và mở rộng tri thức. Mặt khác trong chính quá trình đọc sách, sinh
viên rèn luyện cách học, cách đọc, tài liệu khoa học, phân biệt được cái đúng, cái sai và tỏ thái độ
phê phán của bản thân.
Kĩ năng ghi chép tài liệu đã nghiên cứu trong tự học. Ghi chép tài liệu là một phương thức
tích lũy tài liệu trong quá trình tự học, chuẩn bị tập và biết cách ghi chép tài liệu phù hợp với mục
đích sẽ góp phần hỗ trợ cho trí nhớ và phát huy năng lực chú ý của sinh viên. Ghi chép, tích lũy tài
liệu là điều kiện giúp cho sinh viên rèn luyện trí nhớ và sử dụng một cách lâu dài cho hoạt động
nghề nghiệp sau này.
Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá. Tự kiểm tra đánh giá là kĩ năng cần thiết của chủ thể đối với
mọi hoạt động, là điều kiện để thu tín hiệu ngược, điều chỉnh thiếu sót trong quá trình hoạt động.
Nó giúp sinh viên khẳng định kết quả học tập, tạo niềm tin vào bản thân, phát hiện kịp thời các sai
lầm trong quá trình tự học, từ đó có biện pháp khắc phục, điều chỉnh kịp thời quá trình học tập của
bản thân.
Cách thực hiện: Việc tổ chức, hướng dẫn các kĩ năng tự học cho sinh viên có thể tiến hành
theo nhiều cách khác nhau. Chúng tôi xin trình bày hai cách thức tiến hành đem lại hiệu quả cao:
(1) Tổ chức hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt chuyên đề. Tổ chức hướng dẫn, rèn luyện cho sinh
viên hệ thống các kĩ năng tự học là quá trình tiến hành thường xuyên, liên tục ở trường đại học.
169
Hoàng Thị Ngoan, Nguyễn Thị Vân Anh
Chúng ta có thể lồng ghép hoạt động này vào các hoạt động tập thể, hoạt động ngoại khóa, sinh
hoạt chuyên đề, phong trào văn hóa – văn nghệ, thể dục thể thao,... theo chủ đề sinh hoạt hàng
tháng, học kì. (2) Hướng dẫn kĩ năng tự học thông qua hoạt động dạy học trên lớp. Giáo viên bộ
môn phải đưa việc hướng dẫn kĩ năng tự học thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong đề
cương bài soạn và quá trình tổ chức giảng dạy. Mỗi giờ học, mỗi ngày học, giáo viên thường xuyên
nhắc nhở, kiểm tra đôn đốc sinh viên rèn luyện các kĩ năng dần dần hình thành nên thói quen. Từ
đó cũng đã hình thành tính tự lực học tập cho sinh viên.
Biện pháp 4. Tổ chức các hoạt động tự học cho sinh viên
Mục đích: Rèn luyện các kĩ năng tự học, trên cơ sở đó dần hình thành và phát triển phẩm
chất tự lực học tập cho sinh viên.
Nội dung: Tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên ở kí túc xá, ở thư viện và học nhóm.
Cách thức tiến hành: Tổ chức tự học theo nhóm. Người tổ chức quản lí là cố vấn học tập,
giáo viên chủ nhiệm, trợ lí khoa. Phân chia nhóm: Tùy theo số lượng sinh viên trong lớp, số lượng
nội, ngoại trú mà chia các nhóm cho phù hợp. Số lượng mỗi nhóm từ 5 -7 sinh viên, mỗi nhóm bầu
một nhóm trưởng. Thời gian tự học nhóm: Được tiến hành ngoài giờ lên lớp tùy vào thời gian phù
hợp với các thành viên trong nhóm. Địa điểm tổ chức tự học nhóm ở trên phòng học, giảng đường,
phòng học chuyên môn, kí túc xá, nhà riêng của một bạn trong nhóm, v.v.
Yêu cầu: Căn cứ vào thời khóa biểu của tuần mà nhóm xây dựng kế hoạch học tập, từ 2 – 4
buổi/ tuần. Cuối tuần, nhóm trường báo cáo tình hình sinh hoạt của nhóm cho cố vấn học tập, giáo