1. Mở đầu
Muốn nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, trước hết phải nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên, "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo
dục" (Điều 15 Luật giáo dục 2005) [1]. Chất lượng đội ngũ giáo viên phụ thuộc nhiều vào
quá trình đào tạo trong trường sư phạm cũng như thời gian thực hành, thực tập sư phạm
ở trường phổ thông. Việc hình thành và phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên có vai
trò hết sức quan trọng trong việc hình thành năng lực nghề của sinh viên sư phạm.
“Trường thực hành sư phạm phục vụ công tác đào tạo giáo viên trung học phổ
thông của các trường đại học sư phạm hoặc khoa sư phạm trong các trường đại học khác
là trường trung học phổ thông, thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, loại hình công lập hoặc
bán công, được giao thêm nhiệm vụ tổ chức các hoạt động thực hành sư phạm. Tổ chức
và hoạt động của trường thực hành sư phạm tuân theo quy chế và những quy định chung
của Điều lệ Trường trung học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theo quyết
định số 23/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày 11/7/2000” [2] (Điều 1- Quy chế trường thực hành
sư phạm, phục vụ công tác đào tạo giáo viên trung học phổ thông của các trường đại học
sư phạm, khoa sư phạm trong các trường đại học khác - Ban hành kèm theo Quyết định
số 30 /2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30 tháng 7 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo).
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 177 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện pháp phối hợp giữa trường sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn sinh viên thực tập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 6A, pp. 72-79
This paper is available online at
BIỆN PHÁP PHỐI HỢP GIỮA TRƯỜNG SƯ PHẠMVÀ TRƯỜNG THỰC HÀNH
TRONG VIỆC HƯỚNG DẪN SINH VIÊN THỰC TẬP
Dương Thị Thúy Hà
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài viết đề cập đến một số vấn đề về phối hợp giữa trường sư phạm và
trường thực hành trong việc hướng dẫn sinh viên thực tập; đưa ra những thuận lợi
và khó khăn của trường thực hành trong công tác hướng dẫn rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm cho sinh viên để từ đó đề xuất các giải pháp phối hợp giữa trường sư phạm
với trường thực hành nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên của
các trường sư phạm.
Từ khóa: Nghiệp vụ sư phạm, trường thực hành, biện pháp, thực tập sư phạm.
1. Mở đầu
Muốn nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, trước hết phải nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên, "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo
dục" (Điều 15 Luật giáo dục 2005) [1]. Chất lượng đội ngũ giáo viên phụ thuộc nhiều vào
quá trình đào tạo trong trường sư phạm cũng như thời gian thực hành, thực tập sư phạm
ở trường phổ thông. Việc hình thành và phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên có vai
trò hết sức quan trọng trong việc hình thành năng lực nghề của sinh viên sư phạm.
“Trường thực hành sư phạm phục vụ công tác đào tạo giáo viên trung học phổ
thông của các trường đại học sư phạm hoặc khoa sư phạm trong các trường đại học khác
là trường trung học phổ thông, thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, loại hình công lập hoặc
bán công, được giao thêm nhiệm vụ tổ chức các hoạt động thực hành sư phạm. Tổ chức
và hoạt động của trường thực hành sư phạm tuân theo quy chế và những quy định chung
của Điều lệ Trường trung học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theo quyết
định số 23/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày 11/7/2000” [2] (Điều 1- Quy chế trường thực hành
sư phạm, phục vụ công tác đào tạo giáo viên trung học phổ thông của các trường đại học
sư phạm, khoa sư phạm trong các trường đại học khác - Ban hành kèm theo Quyết định
số 30 /2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30 tháng 7 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo).
Liên hệ: Dương Thị Thúy Hà, e-mail: duongha108@gmail.com
72
Biện pháp phối hợp giữa trường Sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn...
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Những nội dung thực hành rèn luyện sư phạm cho sinh viên trong
trường thực hành
Theo Điều 8 (Quy chế trường thực hành sư phạm - Ban hành kèm theo Quyết định
số 30/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30 tháng 7 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo), nội dung thực hành sư phạm trong trường thực hành bao gồm: Tìm hiểu đối tượng
và môi trường giáo dục của trường trung học phổ thông; Quan sát, tìm hiểu các hoạt động
giáo dục ở các khối lớp trong trường trung học phổ thông; Tìm hiểu và thực hành các khâu
chuẩn bị dạy học, các hoạt động giáo dục trong và ngoài giờ lên lớp, các hoạt động chuyên
môn nghiệp vụ của giáo viên trường trung học phổ thông; Dự một số hoạt động mẫu về
dạy học và giáo dục của giáo viên trường trung học phổ thông; Tập dượt một số hoạt động
có chọn lọc về dạy học và giáo dục; Dự một số giờ thực hành về nghiệp vụ do các giảng
viên trường đại học sư phạm hoặc các giáo viên trường trung học phổ thông thực hiện tại
trường thực hành. . .
Mỗi con người là một cá thể riêng biệt có những đặc điểm riêng của mình, giúp
người đó thích nghi với một dạng hoạt động nào đó và sự thành công trong công tác của
họ phần lớn phụ thuộc vào năng lực của họ với họat động. Có rất nhiều năng lực sư phạm
được đào tạo cho sinh viên trong quá trình học tập ở trường sư phạm và những năng
lực này càng được phát triển, bồi đắp thêm trong quá trình hoạt động. Vì vậy, khi xuống
trường phổ thông, sinh viên được hòa mình với các hoạt động giáo dục thực tế, từ đó giúp
sinh viên nâng cao năng lực bản thân.
Tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục của trường trung học phổ thông
Năng lực hiểu đối tượng và môi trường giáo dục trường trung học phổ thông giúp
cho sinh viên dễ dàng hiểu được những đặc điểm tâm lí, tính cách, trình độ nhận thức của
học sinh, xác định được trình độ tri thức, niềm tin và những phẩm chất tâm lí của các em;
giúp cho người dạy dễ dàng hơn trong việc truyền đạt tri thức cho học sinh và từ đó có
phương pháp dạy học thích hợp để giờ học đạt hiệu quả cao hơn.
Hiểu hoàn cảnh, điều kiện của học sinh cũng như môi trường giáo dục của trường,
sinh viên sẽ có kế hoạch tiếp cận học sinh cũng như cách giao tiếp, phương pháp dạy học,
giáo dục phù hợp với từng đối tượng. Để thực hiện tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo
dục được tốt đòi hỏi sinh viên phải có các năng lực tổng hợp khác. Đó là: Cách đặt câu
hỏi, nội dung câu hỏi phù hợp với các loại đối tượng khác nhau; Cách khai thác thông tin,
gợi mở vấn đề; Năng lực phát hiện vấn đề, những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện giáo
dục, dạy học. . .
Quan sát, tìm hiểu các hoạt động giáo dục ở các khối lớp trong trường trung học
phổ thông
Trong quá trình thực hành, thực tập ở trường phổ thông, một nội dung sinh viên cần
thực hiện đó là biết quan sát, phát vấn, chọn lọc, thu thập các thông tin về sự phát triển
của nhà trường, về truyền thống xây dựng và trưởng thành của trường, về nề nếp giáo dục,
dạy học cũng như các hoạt động ngoại khóa khác của trường. . .
73
Dương Thị Thúy Hà
Tìm hiểu và thực hành các khâu chuẩn bị dạy học, các hoạt động giáo dục trong và
ngoài giờ lên lớp, các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên trường trung học
phổ thông
Có năng lực xây dựng kế hoạch, tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp với hoàn
cảnh, điều kiện và như cầu hứng thú của lớp, của trường, trong đó năng lực chủ nhiệm lớp
là một nhiệm vụ quan trọng của của sinh viên khi đi thực tập sư phạm ở trường phổ thông.
Trong quá trình học tập tại trường sư phạm, sinh viên được học về vấn đề công tác
chủ nhiệm lớp. Khi xuống trường phổ thông, sinh viên được va chạm thực tế, được thực
hành công việc của một giáo viên chủ nhiệm, đó là các hoạt động thiết kế, xây dựng kế
hoạch chủ nhiệm nhằm giúp sinh viên có thể vạch ra được chiến lược phát triển của tập thể
lớp và cá nhân học sinh. Sinh viên có kĩ năng tổ chức các hoạt động của tập thể lớp, của cá
nhân học sinh, tổ chức các hoạt động của chính giáo viên chủ nhiệm một cách chính xác,
khoa học, giúp họ thực hiện các kế hoạch đã xây dựng một cách hiệu quả. Bên cạnh đó
giáo viên chủ nhiệm còn cần có năng lực giao tiếp cởi mở, khoan dung, tạo được sự hiểu
biết, thông cảm, tin cậy lẫn nhau với các loại đối tượng trong nhà trường, phát hiện các
tính cách, nhu cầu, nguyện vọng, hứng thú của cá nhân, các nhóm trong tập thể học sinh.
Biết phối hợp với các tổ chức đoàn đội trong lớp, trong trường. . . biết sử dụng các phương
pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm tập thể, cá nhân, tạo cơ hội cho học sinh tiến bộ.
Dự một số hoạt động mẫu về dạy học và giáo dục của giáo viên trường trung học
phổ thông
Việc dự một số giờ dạy mẫu của giáo viên trường trung học phổ thông giúp sinh
viên học hỏi được về việc tổ chức giờ học sao cho có hiệu quả, các hình thức dạy học,
phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm qua từng giờ giảng của giáo viên phổ thông. Từ đó
giúp sinh viên nâng cao năng lực của bản thân.
Tập dượt một số hoạt động có chọn lọc về dạy học và giáo dục
Trong quá trình dạy học, đặc biệt là qua các buổi học rèn phương pháp ở trường sư
phạm, sinh viên được rèn luyện các kĩ năng như phân tích nội dung dạy học, từ đó xác
định được mục tiêu, yêu cầu bài giảng, xác định được các đơn vị kiến thức trong bài, biết
chọn kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm, kiến thức bổ trợ. . .
Khi xuống trường thực hành, sinh viên đem những kiến thức đã được học ở trường
sư phạm ứng dụng vào bài giảng của mình. Đó là, lựa chọn các phương pháp dạy học phù
hợp với trình độ phát triển tư duy của học sinh, sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt
kĩ năng sử dụng đa phương tiện.
Năng lực dựa trên sự hứng thú với bộ môn mình giảng dạy, tạo khả năng nắm vững,
tái hiện tài liệu giảng dạy, ngoài ra biết tư duy một cách rõ ràng và đúng đắn không phải
chỉ về mặt lí thuyết của tri thức được truyền đạt mà cả mặt liên hệ các tri thức đó với đời
sống và thực hành chúng. Đó là có năng lực về bộ môn mình giảng dạy, nắm vững và yêu
thích bộ môn đó, cố gắng mở rộng tri thức về bộ môn.
Quá trình giảng dạy ở trường thực hành giúp sinh viên có được năng lực:
- Truyền đạt bài học khéo léo, hấp dẫn, dễ hiểu. . . nhằm thu hút sự chú ý của học
sinh để các em nắm được và dễ ghi nhớ tài liệu đó.
- Phát huy tính tích cực, chủ động, năng lực tự học, tư duy độc lập và sáng tạo của
74
Biện pháp phối hợp giữa trường Sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn...
học sinh trong học tập.
- Quan sát, tính tự chủ và kĩ năng gần gũi học sinh trong suốt giờ học
- Năng lực sáng tạo trong công tác dạy học cũng như trong công tác giáo dục.
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin: Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học ở tất cả các bậc học, các ngành học, các môn học đã giúp thay đổi căn bản phương
pháp dạy, phương pháp học, kích thích hứng thú học tập, đem lại niềm say mê sáng tạo
cho người học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
- Năng lực sử dụng các thiết bị dạy học: Thiết bị dạy học góp phần quan trọng trong
truyền thụ tri thức cho học sinh. Việc sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học được coi là yếu tố
quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục.
Dự một số giờ thực hành về nghiệp vụ do các giảng viên trường đại học sư phạm
hoặc các giáo viên trường trung học phổ thông thực hiện tại trường thực hành.
2.2. Những thuận lợi và khó khăn của trường thực hành trong việc hướng
dẫn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên
Phẩm chất và năng lực giáo viên là một trong những vấn đề được đặt biệt quan tâm
trong lĩnh vực nghiên cứu giáo dục nói chung, trong đào tạo và bồi dưỡng giáo viên nói
riêng.
Trong chương trình đào tạo, chúng ta chú trọng nhiều đến trang bị kiến thức bộ môn
mà chưa chú ý đúng mức đến rèn luyện năng lực sư phạm cho sinh viên. Thời gian dành
cho kiến tập sư phạm và thực tập sư phạm còn ít, cho nên các em khi ra trường còn yếu
về tay nghề. Trường thực hành là môi trường lí tưởng giúp cho việc đưa sinh viên xuống
thực hành, thực tập, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện kĩ năng để nâng cao tay nghề.
Bởi vì, trường thực hành là nơi có các điều kiện phù hợp cho việc thực hành, thực tập sư
phạm như trong Điều 3 - Quy chế trường thực hành: Trường thực hành sư phạm phải có
các điều kiện:
- Là trường tiên tiến của địa phương;
- Có quy mô và chất lượng đáp ứng yêu cầu thực hành sư phạm;
- Đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, có cơ cấu
phù hợp để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ thực hành sư phạm;
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính đảm bảo yêu cầu của nhiệm vụ thực hành
sư phạm;
- Có vị trí thuận tiện cho sinh viên trường đại học sư phạm thường xuyên đến thực
hành sư phạm.
Thuận lợi
- Trường thực hành có vai trò quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu,
chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo cho các trường sư phạm.
- Trường thực hành là môi trường lí tưởng, là nơi sinh viên được thực hành những
điều đã được học vào thực tiễn giáo dục. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
rèn luyện nghiệp vụ và nâng cao tay nghề, giúp sinh viên làm quen với học sinh, nói trước
đông người, cách trình bày bảng, cách truyền đạt kiến thức, vận dụng kiến thức đã học
75
Dương Thị Thúy Hà
vào quá trình giảng dạy trên cơ sở những phương pháp đã học.
- Trường thực hành là nơi giúp sinh viên vận dụng kiến thức đã học vào các hoạt
động dạy học, giáo dục, cụ thể như: công tác chủ nhiệm lớp, tổ chức các hoạt động giáo
dục, xử lí các tình huống sư phạm.
- Quá trình sinh viên được thực hành, thực tập tại trường thực hành sẽ từng bước
hình thành lòng yêu nghề, giúp sinh viên biết vận dụng kiến thức thực tiễn, làm phong
phú hơn các kiến thức chuyên ngành đã học, từ đó giúp sinh viên vững về chuyên môn,
giỏi về nghiệp vụ. . .
Khó khăn
Về giáo viên hướng dẫn thực hành sư phạm của trường thực hành được quy định
phải là những người đạt tiêu chuẩn nhà giáo theo quy định ở Điều 10 - Quy chế trường
thực hành sư phạm (Ban hành kèm theo Quyết định số 30/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30
tháng 7 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) thì giáo viên hướng dẫn thực
hành sư phạm ở trường thực hành sư phạm phải là người:
- Có năng lực chuyên môn nghiệp vụ vững vàng; có nhiệt tình với nhiệm vụ đào tạo
giáo viên và đủ khả năng hướng dẫn sinh viên thực hành sư phạm;
- Nắm vững mục tiêu, kế hoạch, nội dung chương trình giáo dục của từng khối lớp
và toàn cấp học Trung học phổ thông;
- Có số năm giảng dạy Trung học phổ thông ít nhất là 5 năm [2].
Tuy nhiên thực tế giáo viên hướng dẫn ở trường thực hành, thực tập sư phạm nhiều
nơi còn thiếu, yếu, chưa đạt theo quy định. Một số giáo viên từ chuyên ngành khác sang
giảng dạy kiêm nhiệm, thậm chí giáo viên trình độ cao đẳng hướng dẫn sinh viên đại học,
giáo viên trẻ mới ra trường cũng được hướng dẫn sinh viên thực tập. . .
Bên cạnh đó, giáo viên ở trường phổ thông sợ sinh viên xuống thực hành, thực tập
sư phạm làm xáo trộn, ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy của trường, nên sinh viên ít
có điều kiện để thử nghiệm những nội dung, phương pháp giảng dạy mới với những yêu
cầu riêng mà phải tuân theo những yêu cầu của giáo viên hướng dẫn.
Khi sinh viên đi thực hành, thực tập sư phạm ở trường phổ thông, sinh viên thường
bị phó thác hoàn toàn cho giáo viên phổ thông, giáo viên phổ thông là người hướng dẫn,
đánh giá, cho điểm chủ yếu đối với kết quả thực tập của sinh viên. Việc cho điểm của
giáo viên phổ thông đôi khi còn dễ dãi để sinh viên có bảng điểm đẹp mang về trường sư
phạm. Chính sự dễ dãi đó làm cho sinh viên không đánh giá được khả năng đích thực của
mình, dẫn tới định hướng sai lệch về thái độ, hành vi, tự cho mình là có năng lực dạy học,
từ đó coi thường việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
Hầu như các trường có sinh viên đi thực tập thường phó mặc nội dung thực tập sư
phạm và việc đánh giá sinh viên thực tập cho giáo viên hướng dẫn cuả các trường phổ
thông đảm trách. Cho nên những kiến thức, kĩ năng mà sinh viên lĩnh hội được trong thời
gian thực tập phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm giảng dạy, năng lực sư phạm của giáo
viên hướng dẫn của trường phổ thông. Vì vậy, việc hình thành và phát triển năng lực sư
phạm cho sinh viên một cách thuần thục ngay trong thời gian sinh viên ngồi trên ghế nhà
trường là việc làm cần thiết.
Thực tế hiện nay cho thấy, trường thực hành chỉ đáp ứng một phần nhỏ cho các đợt
76
Biện pháp phối hợp giữa trường Sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn...
kiến tập, thực tập định kỳ của sinh viên. Toàn bộ hoạt động chính của trường thực hành là
thực hiện nhiệm vụ giáo dục phổ thông như một cơ sở giáo dục bình thường.
Một số trường thực hành, thực tập sư phạm cơ sở vật chất còn thiếu, không được ưu
tiên đầu tư về cơ sở vật chất phục vụ dạy học; chưa được các cấp quản lí đánh giá đúng vai
trò nên chưa khai thác triệt để các tính năng của trường thực hành. Ngay hoạt động thực
tập, dự giờ ở trường thực hành để nâng cao nghiệp vụ cho sinh viên cũng gặp trở ngại do
số sinh viên sư phạm rất lớn. Mặt khác, chính giáo viên phổ thông không muốn bị người
khác dự giờ quá nhiều...
Trường thực hành sư phạm và cơ sở đào tạo giáo viên chưa phát huy được mối quan
hệ tác động qua lại giữa quá trình đào tạo giáo viên của cơ sở đào tạo giáo viên với việc
đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục của trường thực hành sư phạm. Trường
thực hành sư phạm chưa thật sự là một trong những môi trường làm việc của giảng viên
phương pháp giảng dạy bộ môn của cơ sở đào tạo giáo viên. Ngược lại, các giáo viên ở
trường thực hành sư phạm không có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển chương trình
đào tạo giáo viên của cơ sở đào tạo giáo viên.
2.3. Các giải pháp phối hợp giữa các trường sư phạm với trường thực hành
Về nhận thức
Cần có nhận thức đúng đắn về đào tạo nghiệp vụ sư phạm và vai trò của trường thực
hành trong việc nâng cao nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. Trường thực hành sư phạm là
cần thiết, là nơi giáo sinh được thực hành nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện một số kĩ năng
mà nếu thiếu một trong số kĩ năng đó sẽ không thể dạy học tốt được.
- Trường thực hành không chỉ góp phần đào tạo lực lượng cán bộ giảng dạy trong
trường sư phạm mà còn có tác động đến chương trình và nội dung đào tạo về nghiệp vụ
sư phạm; góp phần vào quá trình đào tạo giáo viên. . .
Về đội ngũ giáo viên
Xây dựng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm tốt, có ý
thức, tinh thần trách nhiệm cao đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ ở trường
thực hành để giúp đỡ, hướng dẫn khi sinh viên xuống trường thực hành, thực tập sư phạm.
Để giáo viên của trường thực hành được tham gia vào các hội thảo, các buổi xemina
sinh hoạt chuyên môn, tham gia vào các đề tài. . . của trường trường sư phạm tổ chức để
họ được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với giảng viên của trường sư phạm.
Thường xuyên tổ chức các hội nghị tổng kết đánh giá những mặt được và chưa được
trong công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm của các trường thực hành.
Trường sư phạm cần tăng cường đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn, nghiệp
vu vững vàng và am hiểu thực tế ở trường phổ thông để đi hướng dẫn thực tập sư phạm
cho sinh viên
Các trường sư phạm cần có quy định cứng về chế độ đi thực tế ở trường phổ thông
của giảng viên các bộ môn nghiệp vụ sư phạm, khuyến khích họ trực tiếp tham gia giảng
dạy một số giờ ở trường phổ thông.
77
Dương Thị Thúy Hà
Về kiểm tra đánh giá
Để khắc phục tình trạng sinh viên bị phó thác hoàn toàn cho trường phổ thông khi
đi kiến tập, thực tập sư phạm làm cho việc đánh giá không đúng thực chất, trường sư phạm
cần có những biện pháp phối hợp chặt chẽ với trường phổ thông trong suốt quá trình sinh
viên đi thực tập để việc đánh giá sinh viên không chạy theo thành tích.
Cần có bộ tiêu chí/barem đánh giá, cho điểm để giáo viên phổ thông có cơ sở trong
việc đánh giá và cho điểm sinh viên một cách chính xác, công bằng.
Về thời gian sinh viên xuống trường thực hành
Thực tập sư phạm năm thứ ba và thứ tư với tổng số thời lượng là 10 hoặc 11 tuần.
Thời lượng thực tập như vậy là quá ít đối với việc yêu cầu đào tạo kĩ năng nghề cho sinh
viên. Vì vậy, tạo điều kiện để sinh viên được tiếp cận thường xuyên và cập nhật với việc
dạy và học ở trường phổ thông, tăng cường thời lượng thực hành, thực tập sư phạm cho
sinh viên.
Sinh viên nên được tham quan thực tế, tham gia vào các hoạt động của trường phổ
thông/thực hành ngay từ năm thứ nhất với tư cách như một thành viên của trường phổ
thông, để sinh viên có hiểu biết thực tế cũng như khơi gợi được sự quan tâm, tình cảm
yêu mến đối với con người và tình yêu với nghề dạy học, lòng tự hào với danh hiệu là sinh
viên sư phạm, là người thầy giáo tương lai.
Về đầu tư cơ sở vật chất
Xây dựng trường thực hành sư phạm thuộc sự quản lí trực tiếp của các trường sư
phạm nhằm mục tiêu đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên, tạo môi trường thực tế và
thuận lợi cho việc thực tập và giảng dạy của sinh viên
Đối với những trường sư phạm chưa có trường thực hành của riêng trường mình thì
cần xây dựng mạng lưới trường thực hành, đồng thời phải kí kết những hợp đồng dài hạn,
có sự phối hợp chặt chẽ, có cơ chế để liên kết làm việc và đào tạo giữa trường sư phạm
với trường thực hành trong công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên.
Đầu tư cơ sở vật chất tốt cho các trường thực hành-đặc biệt các trường thực hành
thường xuyên như: Trường sư phạm có sinh viên xuống thực hành phải có kinh phí hỗ trợ
để trường thực hành có thể xây dựng, mua sắm trang thiết bị cần thiết phục vụ công tác
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
Có chế độ, kinh phí bồi dưỡng phù hợp để động viên, giúp đỡ người hướng dẫn sinh
viên thực hành thực tập sư phạm.
3. Kết luận
Trường thực hành sư phạm là môi trường sư phạm lí tưởng để sinh