Tóm tắt: Không gian cũng như thời gian là hai khái
niệm bao trùm nhất của hiện thực khách quan, được
thể hiện trong hầu hết các ngôn ngữ bằng những
phương tiện hết sức phong phú. Tuy nhiên, nếu thời
gian là chủ đề của nhiều công trình nghiên cứu thì
không gian vẫn đang còn là mảnh đất hoang sơ đáng
được quan tâm nhiều hơn. Mặc dù có thể có nhiều
điểm tương đồng, giữa các cộng đồng ngôn ngữ và
văn hóa khác nhau vẫn có cách tri nhận khác nhau về
không gian vì định vị không gian là một yếu tố ngữ
pháp-ngữ nghĩa bị chi phối không chỉ bởi ngữ cảnh
ngôn ngữ mà còn bởi hoàn cảnh giao tiếp. Trong thời
kỳ giao lưu, hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay, việc
nghiên cứu cách tri nhận không gian ở các cộng đồng
ngôn ngữ và văn hóa khác nhau chắc chắn góp phần
nâng cao chất lượng của việc dạy-học ngoại ngữ nói
riêng và hiệu quả của giao tiếp bằng ngoại ngữ nói chung.
Với tiêu đề “Biểu đạt không gian dưới từ góc độ
ngôn ngữ học tri nhận”, tham luận này sẽ trình bày
những nét tương đồng và dị biệt cơ bản (chỉ có ở ngôn
ngữ này mà không có ở ngôn ngữ kia) giữa hai cách
phản ánh không gian của người Việt Nam và người
Pháp dưới góc độ của ngôn ngữ học tri nhận theo cách
tiếp cận liên văn hóa và liên ngôn ngữ.
Tuy nhiên, đây là một đề tài khá lớn, không thể giải
quyết một cách thấu đáo trong một báo cáo nên tham
luận chỉ tập trung đối chiếu hai phương thức sử dụng
giới từ không gian Pháp-Việt để góp phần làm nổi bật
một số đặc trưng của từng ngôn ngữ. Trước tiên, tham
luận sẽ điểm lại các xu hướng tiếp cận giới từ trong các
nghiên cứu ở Pháp cũng như trên thế giới, nhất là
đường hướng ngữ pháp tri nhận liên ngôn ngữ, hiện
đang cho chúng ta một cái nhìn toàn diện nhất về các
giới từ không gian. Phần hai của tham luận sẽ đối
chiếu hai cách định vị không gian của người Pháp và
của người Việt nam qua việc sử dụng giới từ.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 361 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biểu đạt không gian dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
571
BIỂU ĐẠT KHÔNG GIAN DƯỚI GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
Đng Kim Hoa
Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội
Tóm t
t: Không gian cũng như thời gian là hai khái
niệm bao trùm nhất của hiện thực khách quan, được
thể hiện trong hầu hết các ngôn ngữ bằng những
phương tiện hết sức phong phú. Tuy nhiên, nếu thời
gian là chủ đề của nhiều công trình nghiên cứu thì
không gian vẫn đang còn là mảnh đất hoang sơ đáng
được quan tâm nhiều hơn. Mặc dù có thể có nhiều
điểm tương đồng, giữa các cộng đồng ngôn ngữ và
văn hóa khác nhau vẫn có cách tri nhận khác nhau về
không gian vì định vị không gian là một yếu tố ngữ
pháp-ngữ nghĩa bị chi phối không chỉ bởi ngữ cảnh
ngôn ngữ mà còn bởi hoàn cảnh giao tiếp. Trong thời
kỳ giao lưu, hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay, việc
nghiên cứu cách tri nhận không gian ở các cộng đồng
ngôn ngữ và văn hóa khác nhau chắc chắn góp phần
nâng cao chất lượng của việc dạy-học ngoại ngữ nói
riêng và hiệu quả của giao tiếp bằng ngoại ngữ nói chung.
Với tiêu đề “Biểu đạt không gian dưới từ góc độ
ngôn ngữ học tri nhận”, tham luận này sẽ trình bày
những nét tương đồng và dị biệt cơ bản (chỉ có ở ngôn
ngữ này mà không có ở ngôn ngữ kia) giữa hai cách
phản ánh không gian của người Việt Nam và người
Pháp dưới góc độ của ngôn ngữ học tri nhận theo cách
tiếp cận liên văn hóa và liên ngôn ngữ.
Tuy nhiên, đây là một đề tài khá lớn, không thể giải
quyết một cách thấu đáo trong một báo cáo nên tham
luận chỉ tập trung đối chiếu hai phương thức sử dụng
giới từ không gian Pháp-Việt để góp phần làm nổi bật
một số đặc trưng của từng ngôn ngữ. Trước tiên, tham
luận sẽ điểm lại các xu hướng tiếp cận giới từ trong các
nghiên cứu ở Pháp cũng như trên thế giới, nhất là
đường hướng ngữ pháp tri nhận liên ngôn ngữ, hiện
đang cho chúng ta một cái nhìn toàn diện nhất về các
giới từ không gian. Phần hai của tham luận sẽ đối
chiếu hai cách định vị không gian của người Pháp và
của người Việt nam qua việc sử dụng giới từ.
Đặt vấn đề
Nghiên cứu phương thức biểu đạt định vị trong
không gian là một phần không nhỏ trong ngôn
ngữ học tri nhận. Với quan niệm cho rằng việc
phản ánh hiện thực khách quan bằng ngôn ngữ
luôn có mối quan hệ mật thiết với nhiều hoạt động
tri nhận khác, các nhà ngôn ngữ học thuộc trường
phái này đã dành một sự quan tâm đáng kể cho
những lĩnh vực liền kề và quan sát được của kinh
nghiệm loài người; mô tả không gian bằng ngôn
từ đã thực sự trở thành một mảng lớn trong phạm
vi nghĩa học của trường phái này. Đó là lý do
khiến cho việc nghiên cứu các biểu thức định vị
không gian không thể bỏ qua việc tìm hiểu về
ngôn ngữ học tri nhận.
Nghiên cứu các biểu thức định vị không gian
giữa các ngôn ngữ khác nhau, đặc biệt giữa hai
ngôn ngữ xa thuộc hai họ khác biệt như tiếng
Pháp và tiếng Việt, cho thấy các cộng đồng ngôn
ngữ có những thế giới quan và phương thức biểu
đạt vô cùng phong phú. Dựa vào quan điểm này
của các nhà ngôn ngữ học tri nhận, chúng ta có thể
hiểu được sự đa dạng và phong phú của các biểu
thức ngôn ngữ diễn đạt định vị không gian.
Tham luận này bao gồm hai phần chính: phần
thứ nhất tập trung giới thiệu tổng quan về ngôn
ngữ học tri nhận; phần thứ hai sẽ đối chiếu hai
cách định vị không gian của người Pháp và của
người Việt nam qua việc sử dụng giới từ. Việc đối
chiếu được giới hạn trong các câu định vị cố định,
chủ yếu tập trung vào đối chiếu hệ thống mốc định
vị. Từ những phân tích trên cơ sở lí thuyết, tham
luận sẽ đề xuất một số giải pháp sư phạm trong
giảng dạy tiếng Pháp cho người Việt Nam.
Sự ra đời của ngôn ngữ học tri nhận
Ngôn ngữ học, với tư cách là ngành khoa học
về ngôn ngữ và lời nói, đã chứng kiến sự hình
thành và phát triển của các lý thuyết về tri nhận.
Tiu ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp
572
Đó là một trường phái nghiên cứu ngôn ngữ bắt
nguồn từ một xu hướng được phát triển chủ yếu ở
vùng bờ Tây của nước Mỹ. Đa số những học giả
đi tiên phong trong ngôn ngữ học tri nhận là người
Mỹ. Chính vì vậy mà trường phái này còn có tên
gọi là ngôn ngữ học Mỹ hay ngôn ngữ học
California. Ngay từ khi mới xuất hiện, ngôn ngữ
học tri nhận đã được cộng đồng nghiên cứu quốc
tế đón nhận một cách hào hứng với một loạt các
công trình nghiên cứu trong đó có những học giả
có tiếng của Pháp như Vandeloise (1986), Fuchs
(1996), Fortis (2004), Victorri (1996), Desclés
(1994),
Trong cuốn La linguistique cognitive,
Catherine Fuchs [ 3] đã phác thảo những dấu mốc
lớn của các lý thuyết ngôn ngữ có tên gọi là tri
nhận. Trường phái này đã xuất hiện vào giữa
những năm 50 của Thế kỷ trước, khi phong trào
nghiên cứu tự động hóa việc xử lý thông tin bằng
trí tuệ nhân tạo đang phát triển mạnh mẽ. Công
cuộc này được đánh dấu bằng sự tham gia của
Noam Chomsky tại hai hội thảo diễn ra năm 1956
với nhan đề “Chương trình tri nhận”. Giả thiết cơ
bản của các chuyên gia ngôn ngữ học tri nhận hồi
đó là sự tri nhận của con người có thể được mô tả
theo cách máy tính tiếp nhận, tính toán và xử lý
thông tin mà con người thực hiện. Vì vậy, mục
tiêu của chương trình là mô tả các đặc trưng của
sự vận hành của trí tuệ con người qua những khả
năng của bộ óc, đặc biệt là thông qua khả năng
ngôn ngữ vì đây là một lĩnh vực hoàn toàn có thể
quan sát được để từ đó đi sâu nghiên cứu não người.
Các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm của
Chomsky cho rằng ngữ pháp của một ngôn ngữ có
thể cho ta một số thông tin về sự tri nhận của con
người và họ đề nghị đặt tên cho ngành ngôn ngữ
này là ngôn ngữ học tri nhận, đồng thời đề cao
một cách tiếp cận mới “tự nhiên tính” trong
nghiên cứu ngôn ngữ. Với cách tiếp cận này, ngôn
ngữ được coi là một bộ “óc-máy”, phản ánh một
cách đầy đủ hiện thực khách quan ở cấp độ ngữ
nghĩa học. Nói cách khác, ban đầu, ngôn ngữ học
tri nhận coi ngôn ngữ với đặc trưng là các phép
tính (cú pháp) về sự phản ánh hiện thực khách
quan vào óc người chỉ là những cái nhãn cố định
của hiện thực khách quan mà thôi.
Từ giữa những năm 1960 đến giữa những năm
1970 trở đi, nhiều học giả (Talmy 1972,
Langacker 1974b, Langacker & Munro 1975) đi
vào nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận nhưng đồng
thời cũng đưa ra những cách nhìn khác với cách
nhìn nhận của Chomsky: Ngôn ngữ là sự phản ánh
sáng tạo thế giới khách quan.
Thời kỳ những năm 1980 đã được chứng kiến
bước ngoặt của ngôn ngữ học tri nhận. Các học
giả của nhiều trường đại học ở California của Mỹ,
xuất thân từ trường phái ngữ pháp tạo sinh của
Chomsky, đã xây dựng những hình thức khác
nhau của “ngữ pháp tri nhận” để phản bác các loại
ngữ pháp hình thức và ngữ pháp cấu trúc luận.
Trong số các học giả này có Ronald Langacker,
với tập một của tác phẩm "Foundations of
Cognitive Grammar" (Langacker 1987), Leonard
Talmy, với 2 bài báo cơ bản nhan đề: "Force
Dynamics in Language and Thought" và "The
relation of grammar to cognition" (Talmy 1988a et
1988b), (về sau, hai bài báo này được tập hợp
trong cuốn Towards a Cognitive Semantics
(Talmy 2000)), Georges Lakoff, với Women, Fire
and Dangerous Things (Lakoff 1987), và cuối
cùng là Gilles Fauconnier, với một cuốn sách, ban
đầu được viết bằng tiếng Pháp, Espaces mentaux
(Fauconnier 1984), và ngay sau đó được dịch sang
tiếng Anh (Fauconnier 1985), rồi tái bản 10 năm
sau đó. Cuối những năm 1980, trong ngôn ngữ
học tri nhận xuất hiện thêm Givón (1989), một
người theo quan điểm “tân chức năng luận”, đề
cao chức năng giao tiếp của ngôn ngữ, cố gắng
miêu tả những sự tương ứng giữa các hình thức
biểu hiện của một hệ thống ngôn ngữ với những
chức năng của những hình thức đó.
Theo các học giả này, ngôn ngữ được coi như
một công cụ để khái niệm hóa một cách chủ động
thế giới khách quan và như là một công cụ giao
tiếp. Nghĩa của mỗi đơn vị ngôn ngữ (từ vị, từ,
cụm từ và thậm chí là cả một biểu thức cú pháp)
hàm ẩn những hiểu biết của con người về thế giới
khách quan, và ngôn ngữ phải tương thích với
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
573
những gì mà người ta biết được về trí tuệ con
người. Các xu hướng đã tìm cách để cập nhật câu
hỏi về tính tương đối của ngôn ngữ mà Sapir
(1949) và Whorf (1956) đã đặt ra.
Tên gọi “ngôn ngữ học tri nhận” được chính
thức ghi nhận tại Hội thảo quốc tế đầu tiên của
ngành này, tổ chức tại Duisburg của Đức năm
1989 và xuất hiện lần đầu năm 1990 khi tạp chí
Cognitive Linguistics ra số đầu tiên. Kể từ đó, tên
gọi này được dùng để đặt tên cho Hiệp hội quốc tế
về ngôn ngữ học tri nhận (International Cognitive
Linguistics Association). Hiệp hội này thường
xuyên tổ chức các hội thảo về chủ đề ngôn ngữ
học tri nhận, cũng như chăm lo cho việc công bố
các công trình nghiên cứu và xuất bản tạp chí
Cognitive Linguistics.
Định vị không gian bằng giới từ trong tiếng
Pháp và tiếng Việt
Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, con
người thường xuyên phải định vị sự vật trong
không gian. Định vị không gian trong ngôn ngữ
được định nghĩa là “ cách xắp xếp các điểm
không gian của ngữ cảnh giao tiếp bằng việc sử
dụng một phương tiện ngôn ngữ nào đó để có thể
xác định được vị trí của một vật so với một điểm
không gian chiếu vật.” [4]
Các phương tiện ngôn ngữ được dùng để định
vị không gian rất đa dạng trong mọi ngôn ngữ
song trong tiếng Pháp, hầu hết các nghiên cứu đều
tập trung vào hai nhóm từ vựng: động từ chỉ trạng
thái và giới từ chỉ vị trí.
Khi nghiên cứu các giới từ chỉ vị trí trong tiếng
Pháp đã có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Nhìn chung, các cách tiếp cận đều tập trung
nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố tham gia
vào việc xác định vị trí sự vật. Theo Isabelle
Verjat [6], có bốn yếu tố tham gia vào việc người
nói lựa chọn phương tiện ngôn ngữ này hay
phương tiện ngôn ngữ khác để định vị một vật
trong không gian: chủ thể phát ngôn, vật được định
vị, không gian chiếu vật và ngữ cảnh giao tiếp.
Cách tiếp cận của ngữ pháp truyền thống về
giới từ chỉ vị trí thường chỉ xét tới mối quan hệ
của vật được định vị với không gian chiếu vật.
Quan điểm này cho rằng việc lựa chọn một giới từ,
ngoài những qui tắc từ vựng, còn phụ thuộc rất
nhiều vào bối cảnh ngôn ngữ (ngôn cảnh), nghĩa
là bị qui định bởi mối liên kết cú pháp của giới từ
đó trong câu: hoặc với động từ chỉ trạng thái sự
vật đứng trước nó hoặc/và với danh từ chỉ vị trí
đứng sau nó. Chẳng hạn, để diễn đạt cùng một
hướng định vị, ta có thể có hai động từ khác nhau
se lever (1a) [hướng lên] hoặc s’orienter (1b)
[hướng về], song mỗi động từ lại lựa chọn cho
mình một giới từ riêng biệt để kết hợp1.
1a. ... et son regard levé sur moi. [cái nhìn của
anh ấy ngước lên phía tôi]
1b. son regard orienté vers Marie. [cái nhìn
của anh ấy hướng về phía Marie]
Như vậy, trong các bối cảnh ngôn ngữ khác
nhau, ta sẽ có các giới từ khác nhau (sur, vers)
nhưng ý nghĩa định hướng không thay đổi. Cũng
như vậy, cùng một trạng thái sự vật nhưng không
gian chiếu vật khác nhau thì giới từ được sử dụng
cũng khác nhau (2a. 2b) mà ý nghĩa vị trí của các
giới từ này cũng gần như không thay đổi:
2a. Dans cette rue se trouve un restaurant
chinois.
[Trong phố này / có / một nhà hàng
Trung Quốc]
2b. Sur cette avenue il y a de nombreuses
boutiques.
[Trên đại lộ này / có / rất nhiều cửa hàng]
Tuy nhiên trên thực tế của hoạt động ngôn ngữ,
ta có thể liệt kê rất nhiều câu có cùng ngôn cảnh
nhưng có thể sử dụng những giới từ khác nhau
chứng tỏ việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ
không chỉ giới hạn bởi các yếu tố trong ngôn ngữ
như quan niệm truyền thống mà còn bị ảnh hưởng
rất nhiều bởi các yếu tố ngoài ngôn ngữ.
Quan điểm của ngữ pháp phát ngôn
1
Các ví dụ được lấy từ nhiều nguồn khác nhau: tác phẩm
văn học, báo, tạp chí, các bài nghiên cứu, sách ngôn
ngữ,
Tiu ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp
574
(Grammaire énonciative) đã chỉ rõ hoàn cảnh giao
tiếp cũng là một nhân tố tham gia vào định vị
không gian. Các cặp giới từ devant/derrière
[trước/sau], à gauche de/à droite de [bên trái/bên
phải] được sử dụng không những chỉ phụ thuộc
vào vị trí của vật được định vị với chiếu vật mà
phụ thuộc cả vào vị trí của chủ thể tham gia giao
tiếp. Bình thường người Pháp vẫn dùng “Il est
devant l’ordinateur” [Anh ta ngồi trước máy vi
tính], nhưng ta cũng có thể gặp câu “Vous
travaillez toute la journée derrière l’ordinateur?”
[Anh làm việc suốt cả ngày sau máy vi tính vậy
sao?]. Trong trường hợp này, người nói coi cái
máy vi tính đang ở trước mặt mình và như vậy
người nghe phải ở sau máy vi tính, nghĩa là ở phía
bên kia máy vi tính so với người nói. Trên thực tế,
cả hai câu này, dù sử dụng hai giới từ trái nghĩa
nhưng lại chỉ cùng một vị trí là anh ta đang ngồi
trước màn hình của máy vi tính. Charaudeau [2]
cũng chỉ ra rằng tiếng Pháp còn có cặp giới từ
đồng nghĩa en dehors de/hors de cùng thể hiện vị
trí của một vật nằm ngoài điểm chiếu vật nhưng
cách dùng của mỗi từ lại phụ thuộc vào vị trí của
chủ thể. Nếu chủ thể (x) nằm trong điểm chiếu vật
(o) thì ta dùng hors de (3a), ngược lại ta dùng en
dehors de nếu chủ thể nằm ngoài điểm chiếu vật (3b).
3a. Il passe les trois quarts de son temps hors
de la maison.
[Ba phần tư thời gian anh ấy ở /bên ngoài/ nhà
mình]
3b. Certains préfèrent vivre en dehors de la ville.
[Một số người thích sống ở bên ngoài thành
phố]
X
Quan điểm của ngữ pháp phát ngôn đã có chú ý
tới chủ thể giao tiếp khi nghiên cứu định vị không
gian song chỉ mới đề cập tới vấn đề vị trí chỗ
đứng của chủ thể giao tiếp chứ chưa đi sâu vào
các yếu tố tâm lí, văn hoá xã hội của họ. Trên thực
tế, việc sử dụng giới từ để định vị phụ thuộc rất
nhiều vào ý định giao tiếp, vào sự tri nhận không
gian và vào cả thói quen ngôn ngữ của chủ thể
phát ngôn. Cùng một ngôn cảnh, cùng một ý nghĩa
vị trí nhưng ta có thể gặp các giới từ khác nhau:
4a. de 40 à 50 mm de pluie tombent sur la
ville.
[từ 40 đến 50 mm nước mưa trút / lên / thành
phố]
4b. il était tombé 76 centimètres de pluie
dans la ville.
[76 cm nước mưa đã trút / vào / thành phố]
Hiện tượng này chỉ có thể được giải thích rõ
trên quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận. Cách
tiếp cận này cho thấy, trong các yếu tố tham gia
vào định vị không gian, chủ thể nhận thức là yếu
tố quan trọng nhất trong đó cách nhìn của chủ thể
nhận thức để sắp xếp không gian mang tính chất
quyết định tới việc sử dụng một phương tiện ngôn
ngữ nào đó. Chủ thể phát ngôn tùy theo ý định
giao tiếp có thể thể hiện không gian chiếu vật là
không gian hai chiều (4a) hay ba chiều (4b).
Yếu tố chủ quan trong việc lựa chọn giới từ
của chủ thể còn thể hiện ở sắc thái ý nghĩa mà chủ
thể muốn truyền đạt. Quả vậy, chúng ta biết rằng
trong ngôn ngữ, đại đa số các từ đều là từ đa nghĩa.
Đường hướng ngữ nghĩa đã có được rất nhiều
thành tựu trong nghiên cứu giúp chúng ta có thêm
sự hiểu biết về các nét nghĩa khác nhau của các
giới từ chỉ vị trí trong tiếng Pháp. Lấy ví dụ hai
câu sau:
5a. il se trouvait dans la tente qui lui sert de
logement.
[Anh ấy ở / trong / lều được dùng làm nơi cư
trú]
5b. Je voulais dormir sous la tente
[Tôi đã định ngủ / dưới / lều]
X
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
575
Câu (5a và 5b) chỉ cùng một vị trí nhưng giới
từ sử dụng trong hai câu khác nhau. Tuy nhiên, sự
khác nhau khi sử dụng giữa hai giới từ này không
phải ở sự tri nhận không gian chiếu vật là hai
chiều hay ba chiều. Theo các nhà ngữ nghĩa, "dans
la tente" [trong lều] (5a) chỉ là sự định vị thuần
túy, còn "sous la tente" [dưới lều] (5b) là sự định
vị có hàm ẩn cả ý nghĩa được bảo vệ. Như vậy,
quan điểm ngữ nghĩa giúp ta phân biệt được
những nét nghĩa khác nhau của một giới từ cụ thể
mà người nói muốn truyền tải. Ví dụ ý nghĩa của
giới từ sur [trên] trong tiếng Pháp, như các ví dụ
sau đây của Vandeloise [5], không chỉ giới hạn
trong nghĩa gốc biểu đạt vị trí bên trên của một vật
có tiếp xúc đối với vật đỡ nó. Trên thực tế, giới từ
này có thể diễn đạt sự tiếp xúc của vật được định
vị với chiếu vật ở bên trên (6a) song cũng có thể
hàm ẩn nhiều hướng tiếp xúc khác nữa (6b, 6c).
6a. Le livre est sur la table. [Quyển sách ở trên
bàn.]
6b. Le tableau est sur le mur. [Bức tranh ở trên
tường]
6c. L'araignée est sur le plafond. [Con nhện ở
trên trần nhà]
Như trên đã trình bày, mỗi cách tiếp cận đều
góp phần làm sáng tỏ một khía cạnh nào đó của
vấn đề, song với tư cách là người dạy và học
ngoại ngữ, chúng ta đã không chỉ một lần bất ngờ
với cách định vị của chính người Việt Nam mình.
Hãy so sánh câu tiếng Pháp (7a) với câu tiếng Việt
(7b):
7a. la majorité des enfants qui mendient
dans la rue sont issus de familles normales.
[Phần lớn trẻ / đi ăn xin / trong phố / xuất
thân từ những gia đình bình thường.]
7b. Người đi đi ngoài phố. (Lời nhạc Anh Việt
Thu)
Nếu như trong câu tiếng Pháp (7a), “dans la
rue” [trong phố] diễn đạt vị trí so với không gian
chiếu vật thì trong câu tiếng Việt (7b), “ngoài
phố” không có nghĩa là bên ngoài không gian
chiếu vật, nghĩa là giới từ không diễn đạt vị trí so
với không gian chiếu vật. Như vậy, sự không
tương đồng trong sử dụng giới từ của hai ngôn
ngữ ở đây không phải trên phương diện ngữ nghĩa,
cũng không phải ở quan niệm về không gian mà là
ở cách thức tổ chức các điểm không gian khác
nhau. Giới từ tiếng Việt không phải bao giờ cũng
mô tả mối quan hệ của vật với không gian hiển
ngôn nhưng giới từ tiếng Pháp thì lại luôn như vậy.
Như vậy, với cách tiếp cận liên ngôn ngữ
chúng ta có thể sẽ có những phát hiện khác về các
giới từ chỉ vị trí trong tiếng Pháp, như tác giả Lý
Toàn Thắng đã khẳng định: “Trong bất cứ ngôn
ngữ nào cũng có những phương tiện để miêu tả
một cách trực quan, hình ảnh các thuộc tính và
quan hệ không gian của các sự vật, và nếu tiến
hành một sự so sánh đối chiếu liên ngôn ngữ
chúng ta dễ dàng nhận ra cái đặc thù của một
ngôn ngữ nào đó về phương diện này” [9].
Một số nhà nghiên cứu tiếng Việt đã chỉ rõ
người Việt Nam có cách định vị khá đặc biệt so
với người nói tiếng Anh, tiếng Nga và cả tiếng
Pháp. Cách định vị khác biệt của người Việt đó là
cách định vị kép, theo cách nói của tác giả Trần
Quang Hải nghĩa là “... cùng một cấu trúc bề mặt
nhưng diễn đạt hai quan hệ không gian khác
nhau” [8]. Thực vậy, các định ngữ như trong
xóm/ngoài làng, trước sân/sau vườn, bên Tây/bên
Tàu, trên trời/dưới biển vừa biểu thị cách xắp
xếp sự vật với không gian khách quan hiển thị
trong phát ngôn vừa biểu thị cách xắp xếp sự vật
với không gian chủ quan ẩn ngôn được hiểu là vị
trí của người nói hoặc một vị trí ngầm định nào đó.
Tiu ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp
576
Chẳng hạn, “ngoài làng” nghĩa là ở trong làng và
ngoài xóm. Trong tiếng Pháp, thường thì một
phương tiện ngôn ngữ chỉ biểu thị một mối quan
hệ không gian: Các trạng từ biểu đạt cách định vị
chủ quan còn các giới từ biểu đạt cách định vị
khách quan. Nếu người nói muốn qui chiếu tới cả
hai đối tượng không gian thì họ phải dùng tới hai
phương tiện ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ:
8. Nous sommes ici, dans l'atelier de
préparation du bois
[Chúng tôi đang ở đây, trong xưởng gỗ]
Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể gặp một số
giới từ trong tiếng Pháp có thể biểu đạt cả hai mối
quan hệ trong một định vị kép:
9a. A cette station, descente à gauche!
(annonce SNCF)
[Ở bến này, lối ra bên trái]
9b. Le message qui apparaît en haut à gauche
de l'écran
[Dòng chữ hiện ở phía trên bên trái màn
hình]
Câu (9a) là định vị đơn qui về vị trí bên trái của
đoàn tàu chứ không phải của người nói hoặc của
người đi tàu, nhưng câu (9b) rõ ràng là đ