Mở đầu.
Đặt vấn đề.
Giải quyết vấn đề.
A. Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
B. Quy luật và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
C. Biểu hiện quy luật trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
IV. Vận dụng quy luật vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
38 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1497 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Biểu hiện của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI THẢO LUẬN SỐ 1NHÓM 11Nội dung thảo luận Biểu hiện của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta.Mở đầu.Đặt vấn đề.Giải quyết vấn đề. A. Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. B. Quy luật và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. C. Biểu hiện quy luật trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.IV. Vận dụng quy luật vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.I. Mở đầu. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế ,tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển. II. Đặt vấn đềLà phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dưới sự vận động của lịch sử loài người cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng có sự thay đổi có tính chất cách mạng.Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản suất tương ứng Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phất triển của lực lượng sản xuất. Do vậy quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế hơn thế nữa nó còn là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội, bởi vì nó là quy luật cơ bản của phương thức sản xuất..Với những chính sách đường lối và chủ trương đúng đắn nắm bắt tốt quy luật của Đảng và nhà nước, nền kinh tế đã phát triển mạnh mẽ đưa nước ta từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu thành một nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến góp phần đẩy nhanh nền kinh tế nước nhà đi sang một hướng khác.III. Giải quyết vấn đề.Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản suất và biểu hiện của quy luật này ở nước ta. A. Khái niệm về lự lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 1. Lực lượng sản xuất. 2. Quan hệ sản xuất. B. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 1. Trình độ lực lượng sản xuất. 2. Biểu hiện quy luật trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. A. Khái niện: 1. Lực lượng sản xuất.Để tiến hành sản xuất thì con người phải dung các yếu tố vật chất và kĩ thuật nhất định. Tổng thể các yếu tố đó goi là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.Các yếu cấu thành nên lực lượng sản xuất là người lao động và tư liệu sản xuất.Như Lê nin đã viết”lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là người lao động, công nhân” vì vậy có thể coi yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người 2. Quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất nghĩa là quan hệ giữa người với tư liệu sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh nghĩa là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trong trao đổi của cải. Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm nghĩa là quan hệ chặt chẽ với nhau cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngưng tăng trưởng thúc đẩy tái sản xuất mở roongjj và nâng cao phúc lợi cho người lao động B. Quy luật và quan hệ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 1. Trình độ của lực lượng sản xuất.Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với phương thức sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử loài người thể hiện khả năng chinh phục thiên nhiên của con người trong giai đoạn đó.Khái niệm của trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mình.Trình độ lao động sản xuất thể hiện ở trình độ công cụ lao động, trình độ quản lý xã hội, trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, kinh nghiệm và kĩ năng của con người, trình độ phân công lao động 2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuấtQuan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là 2 mặt của phương thức sản xuất, sự tác động lẫn nhau giữa chúng biểu hiện mối quan hệ mang tinh biện chứng.Chính sự thống nhất và tác động giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã hình thành lên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến một giới hạn nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có.Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và đánh dấu sự ra đời của một phương thức sản xuất mới Sự xóa bỏ các hình thức quan hệ hiện có không phải là tự thân mà phải thông qua một phương thức chính trị và pháp quyền mà phương thức pháp quyền là trực tiếp. Những quan hệ sản xuất cũ và hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo duy trì khai thác, phát triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành hình thức kìm hãm sự phát triển đó. Như CácMác đã nhận định“từ một giai đoạn phát triển nào đó của chúng các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất những quan hệ đấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu một cuộc cách mạng xã hội”Đó cũng chính là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng còn lực lượng sản xuất người không phát hiện được cũng như mâu thuẫn được phát hiện mà không giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta không nên tuyệt đối hóa vai trò của lực lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với nó khi giữa chúng có sự phù hợp. Đôi khi sự phát triển chệch hướng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chật và trình độ phát triển của lượng sản xuất là do yếu tố chủ quan, chứ không phải do tính chất đặc thù của quy luật đó Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất.Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt động, cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy tính tích cực, sáng tạo cho con người là nhân tố quan trọng và quyết định trong lực lượng sản xuất Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ thống quản lí sản xuất và quản lí xã hội quy định phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích, hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản xuất áp dụng thành tựu khoa học và sản xuất hợp tác phân công lao động.C. Biểu hiện quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 30 năm ở miền Bắc và hơn 10 năm trên phạm vi toàn quốc nếu tính đến thời điểm bắt đầu đổi mới. Ngôi nhà xã hội chủ nghĩa mà chúng ta bắt muốn xây dựng có thể có nhiều đặc trưng,nhưng có hai dặc trưng chất lượng quan trọng nhất mà dứt khoát chúng ta phải đạt tới, đó là vừa giàu có hơn, vừa công bằng hơn so với chủ nghĩa tư bản.Tuy nhiên trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế sản xuất của nước ta lại chậm phát triển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Sự khó khăn này có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là: không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phá triển của lực lượng sản xuất. Nghị quyết Đại hội VIII đã chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm. Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức mạnh thấp. Nhịp độ tăng trưởng tổn sản phẩm trong nước(GDP), nhịp độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, kinh ngạch xuất khẩu, nhập khẩu,không đạt chỉ tiêu đề ra.Nhìn chung năng xuất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp , công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước. Hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư còn phân tán, lãng phí và thất thoát nhiều.Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tác động lực mạnh để phát triển một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy định về quản lý nhà nước không còn phù hợp, chưa bổ xung những cơ chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất.Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, nhà nước ta đã khôn thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là theo đường lối đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.Điều đó nghĩa là đưa quan hệ sả xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Điều đố hoàn toàn mâu thuẫn với quy luật: ‘quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Để khắc phục những mâu thuẫn có thể phát sinh đòi hỏi phải thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất Những chính sách mới của Đảng và nhà nước đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển một cách mạnh mẽ. Sự thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa nền kinh tế nước ta sang một bước đi mới. Mọi người được tự do kinh doanh buôn bán, các doanh nghiệp kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng trước pháp luật.Tất cả đều vì mục tiêu duy nhất là thúc đẩy nền kinh tế nước nhà phát triển đi lên III. Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là nền kinh tế đang thực hiện những cuộc cải biến cách mạng toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực kinh tế,chính trị,văn hóa,xã hội.Trong lĩnh vực kinh tế đó việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ,xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa, từng bước chuyển nền kinh tế nhiều thành phần, sản xuất nhỏ là chủ yếu lên nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ 8 đã chỉ rõ: vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước biểu hiện ở chỗ “làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỡ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô,tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới 1.Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamTừ năm 1975,sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân tộc – dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ này của Đảng ta nói rõ hơn thực trạng kinh tế và chính trị của đất nước: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước chải qua hang chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư phong kiến, thực dân còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.Trong quá trình đổi mới một trong những vấn đề lý luận cốt lõi thuộc về đường lối, là sự chuyển đổi từ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và nhà nước ta đã chủ chương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách: phát triển kinh tế hang hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước.Phát triển lượng sản xuất hiện đại, gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới cho phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối 2 Những thành tựu kinh tế, xã hội đã đạt được:Một là kinh tế tăng trưởng khá: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7-8%/năm. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực.Nông nghiệp phát triển liên tục: Năm 1995 bình quân lương thực là 360kg/người, năm 2000 đã tăng lên 444kg/người. Công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được nhiều tiến bộ. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hằng năm là 13.5%Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển trong điều kiện khó khăn hơn trước, góp phần tích cực cho tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống.Giá trị các ngành dịch vụ tăng 6.8%/năm. Giá trị doanh thu bưu điện tăng bình quân hằng năm là 11.3%. Hai là văn hóa, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới về cả quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cả cơ sở vật chất. Năm 1999-2000 so với 1994-1995 số học sinh các cấp học. bậc học đều tăng đáng kể, mẫu giáo tăng 1.2 lần, trung học cơ sở tăng 1.6 lần, trung học phổ thong tăng 2.3 lần, đại học 3 lần, học nghề 1.8 lần Việc làm và đời sống của nhân dân được giải quyết và có nhiều kết quả. Công tác xóa đói, giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, rộng khắp, nhất lã ở vùng nghèo, xã nghèo, đạt kết quả tốt, được đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình; Bảo vệ chăm sóc trẻ em, chăm sóc sức khỏe nhân dân, chăm sóc người có công, đền ơn đáp nghĩa, đạt nhiều kết quả tốt 3. Những vấn đề còn tồn tại:Một là, trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai do: - Cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trọn nhều nghành kinh tế máy móc, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. - Do cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triển, sự dịch chuyển kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. - Khả năng cạnh tranh của các cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như thị trường ngoài nước còn rất yếu.Hai là thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. - Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thong hàng hóa thống nhất. - Thị trường hàng hóa- dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực( hàng giả, hàng lậu, hàng nhái) - Thị trường hàng hóa sức lao động mới manh nha. - Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp tư nhân thiếu vốn nhưng không vay được do vướng thủ tục. Ba là có nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường, do vậy nền kinh tế ở nướ ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hóa cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hóa nhỏ phân tán còn phổ biến.Bốn là sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật ở nước ta thấp xa nhiều so với hầu hết các nước khác.IV. Kết luận và giải pháp.1. Kết luận.Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt tốt quy luật để chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể.Trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi quan hệ sản xuất phải căn cứ vào thực trạng của lực lượng sản xuất hiện có về trình độ của chúng( đây là cơ sở lý luận trực tiếp của việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, của quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước).2. Giải pháp.Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn thong suốt đặc điểm của các quá trình tiế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau thúc đẩy cung nhau phát triển. Trên mỗi bước đi phải đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở vật chất cũ, tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức quy mô thích hợp để cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển Tại Đại Hội IX Đảng ta khẳng định” cần phải nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp& nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn, phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn những hình thức kinh tế hộ nông thôn ngày nay được mở rộng, các hình thái kinh tế ở nông thôn, kinh tế trang trại, mở mang nhanh công nghệ chế biến nông sản theo trình độ quy mô công nghiệp.Nghiên cứu về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phá triển của lực lượng sản xuất sẽ giúp mỗi sinh viên, dặc biệt là sinh viên khối kinh tế có thêm những hiểu biết ban đầu và sâu sắc về sự phát triển ở nước ta cung như trên thế giới. Từ đó có thể góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này. THE END.