Tóm tắt. Năng lực hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên là những phẩm chất,
khả năng được tạo ra do sự tác động qua lại giữa các thành tố (các cơ sở
đào tạo giáo viên) của hệ thống để có thể thực hiện chức năng đào tạo, tư
vấn và tổ chức các hoạt động đáp ứng yêu cầu chung của ngành giáo dục và
các cơ sở đào tạo giáo viên, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
và hiệu quả sử dụng đội ngũ giáo viên các cấp học trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Để nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên có
rất nhiều giải pháp, tuy nhiên có hai giải pháp cơ bản: xây dựng cơ cấu tổ
chức hệ thống và xác định rõ các chức năng của hệ thống cơ sở đào tạo giáo
viên. Để các giải pháp trên thực sự có hiệu quả, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần
sớm triển khai những giải pháp này vào thực tiễn, đặc biệt cần phải trao
quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo giáo viên. Các cơ sở đào tạo giáo viên
phải không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, cơ sở vật chất đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của hệ thống giáo dục, tạo sự liên kết chặt chẽ,
thống nhất về chất lượng giữa nơi đào tạo (các trường sư phạm) và nơi sử
dụng (các cơ sở giáo dục).
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các giải pháp nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
IER., 2011, Vol. 56, pp. 9-18
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
CỦA HỆ THỐNG CƠ SỞ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
Đinh Quang Báo
Viện Nghiên cứu Sư phạm - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
E-mail: baodq@hnue.edu.vn
Tóm tắt. Năng lực hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên là những phẩm chất,
khả năng được tạo ra do sự tác động qua lại giữa các thành tố (các cơ sở
đào tạo giáo viên) của hệ thống để có thể thực hiện chức năng đào tạo, tư
vấn và tổ chức các hoạt động đáp ứng yêu cầu chung của ngành giáo dục và
các cơ sở đào tạo giáo viên, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
và hiệu quả sử dụng đội ngũ giáo viên các cấp học trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Để nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên có
rất nhiều giải pháp, tuy nhiên có hai giải pháp cơ bản: xây dựng cơ cấu tổ
chức hệ thống và xác định rõ các chức năng của hệ thống cơ sở đào tạo giáo
viên. Để các giải pháp trên thực sự có hiệu quả, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần
sớm triển khai những giải pháp này vào thực tiễn, đặc biệt cần phải trao
quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo giáo viên. Các cơ sở đào tạo giáo viên
phải không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, cơ sở vật chất đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của hệ thống giáo dục, tạo sự liên kết chặt chẽ,
thống nhất về chất lượng giữa nơi đào tạo (các trường sư phạm) và nơi sử
dụng (các cơ sở giáo dục).
1. Đặt vấn đề
Trải qua hơn 60 năm xây dựng và phát triển ngành sư phạm, các trường sư
phạm trong cả nước đã đào tạo được một đội ngũ đông đảo các nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị tốt, có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu phát triển xã hội trong từng giai đoạn phát
triển của đất nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển
giáo dục, các trường sư phạm nói riêng phải phấn đấu nâng cao chất lượng và hiệu
quả đào tạo giáo viên.
Muốn phát huy hiệu quả tổng hợp năng lực của tất cả các cơ sở thì cần thiết
lập các mối quan hệ về cấu trúc và chức năng giữa các cơ sở đào tạo giáo viên sao
cho trở thành một tổ chức có tính hệ thống theo hướng phân tầng: trường quốc gia,
trường vùng, trường liên tỉnh; dựa vào từng thế mạnh riêng của từng cơ sở và liên
9
Đinh Quang Báo
kết các cơ sở đào tạo giáo viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Để nâng cao
năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên (CSĐTGV) có rất nhiều giải pháp.
Nội dung nghiên cứu của bài báo là các giải pháp nâng cao năng lực của hệ thống
CSĐTGV.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Xây dựng cơ cấu tổ chức hệ thống
2.1.1. Xây dựng cơ cấu tổ chức hệ thống CSĐTGV
Việc xây dựng cơ cấu tổ chức hệ thống CSĐTGV phải theo nguyên tắc xác
định đơn vị cấu trúc và tạo được mối quan hệ tương trợ giữa các đơn vị đó. Chính
các mối quan hệ này mới tạo ra hoạt động chức năng của hệ thống. Chức năng chính
của hệ thống CSĐTGV là đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống giáo dục quốc dân.
Như vậy khi thiết kế hệ thống phải hướng vào việc tạo cho nó có năng lực nâng cao
được chất lượng nguồn nhân lực đó.
- Đơn vị cấu trúc của hệ thống CSĐTGV là các CSĐTGV. Trước hết đó là các
trường sư phạm (SP): Trung học sư phạm (THSP), cao đẳng sư phạm (CĐSP), đại
học sư phạm (ĐHSP). Các trường SP đó đào tạo giáo viên (GV) cho các cấp học:
Giáo dục mầm non, phổ thông (Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông.
Bên cạnh đó còn có các trường đa ngành có đào tạo giáo viên (được phát triển từ
các trường sư phạm).
Khái niệm “đào tạo giáo viên” ngày nay được hiểu rộng hơn với thuật ngữ mới
“giáo dục giáo viên” theo khuyến nghị của UNESCO. Với nghĩa này giáo dục GV
bao gồm giai đoạn đào tạo ban đầu ở các CSĐTGV và giai đoạn bồi dưỡng, phát
triển nghề nghiệp trong cả quá trình hành nghề của người GV.
Ngày nay, cũng theo xu hướng đó Việt Nam cũng cần và thực tế đã thực hiện
gắn liền việc đào tạo ban đầu và bồi dưỡng phát triển nghề nghiệp GV. Mặt khác
các CSĐTGV không chỉ đào tạo ban đầu, mà còn bồi dưỡng, phát triển nghề nghiệp
GV và đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD), ngược lại các cơ sở
bồi dưỡng thường xuyên GV, CBQLGD cũng có chức năng đào tạo GV. Các trường
bồi dưỡng CBQLGD cũng được hình thành và theo logic cùng thực hiện nhiệm vụ
phát triển năng lực đội ngũ giáo viên và CBQLGD.
Như vậy trong quá khứ, hiện tại và tương lai đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội
ngũ GV, CBQLGD cho ngành giáo dục là những lĩnh vực có quan hệ chặt chẽ lôgic
hệ thống. Điều này đã được khẳng định trong các chủ trương của Đảng, Nhà nước
và ngành GD. Trong quá trình nghiên cứu thực tiễn, hội thảo các ý kiến chuyên gia
cũng khẳng định sự cần thiết xác lập và phát triển lôgic đó.
Như vậy, có thể định nghĩa khái niệm: “CSĐTGV”- “Đơn vị cấu trúc của hệ
thống CSĐTGV” là cơ sở thực hiện chức năng đào tạo - bồi dưỡng GV, CBQLGD.
Cơ cấu tổ chức hệ thống CSĐTGV là mô hình cấu trúc, được thiết lập để có
10
Các giải pháp nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên
thể tạo ra mối quan hệ tác động qua lại và chính các mối quan hệ này xác lập được
chức năng của hệ thống ở các cấp độ khác nhau: Hệ lớn - Hệ con - các bậc tiếp theo.
Theo tiếp cận hệ thống thì một hệ thống khi được hình thành sẽ có khả năng tự
điều chỉnh chức năng dưới tác động của môi trường bên ngoài và môi trường bên
trong. Đặc điểm này phải được tính đến khi thiết kế mô hình cấu trúc để sao cho hệ
thống hoạt động vận hành có sự thống nhất hài hoà giữa cơ chế tự thân linh hoạt,
chủ động (tự chủ, tự giác) với cơ chế quản lý hành chính. Điều này sẽ được phân
tích kỹ hơn khi mô tả các chức năng của hệ thống.
2.1.2. Hệ thống tổng thể CSĐTGV
- Hệ thống tổng thể CSĐTGV là hệ thống được cấu thành bởi tất cả các
CSĐTGV. Có thể gọi đó là hệ thống lớn, trong quan hệ với các hệ con là các
CSĐTGV.
Trong một hệ thống các phần tử quan hệ với nhau theo nguyên tắc thứ - bậc:
Hệ lớn, hệ nhỏ hơn theo các thứ bậc. Trong đó các hệ con vừa là đơn vị cấu trúc
của hệ lớn, vừa là hệ lớn của những hệ con bậc dưới. Dù là cấp độ nào thì mỗi hệ
con vừa là đơn vị cấu trúc, vừa là đơn vị chức năng. Theo nguyên tắc đó hệ thống
CSĐTGV cũng được thiết kế thành các hệ con theo các thứ bậc khác nhau. Mỗi hệ
con ở một bậc nào đó được đặc trưng bởi một loại quan hệ và theo đó là một loại
chức năng nhất định. Đó cũng là nguyên tắc xác lập và phân loại các hệ con cấu
thành hệ thống CSĐTGV.
Hình 1. Sơ đồ cấu trúc hệ thống CSĐTGV
11
Đinh Quang Báo
2.1.3. Các hệ thống được xác lập theo phạm vi quản lý hành chính Nhà
nước
Hình 2. Hệ thống cấu trúc theo phạm vi quản lý hành chính Nhà nước
Với cấu trúc này sẽ tạo ra được quan hệ giữa Bộ - Sở - Phòng giáo dục (gọi là
quan hệ dọc) và quan hệ giữa các CSĐTGV cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện/quận
(gọi là quan hệ ngang). Mỗi loại quan hệ này có thể nghiên cứu để tạo điều kiện
thực hiện các chức năng cụ thể tác động hiệu quả đến đội ngũ GV. Các chức năng
mà các mối quan hệ này có thể thực hiện sẽ được lựa chọn và xác định trong các
chức năng mà hệ thống CSĐTGV có thể đóng góp cho sự phát triển đội ngũ GV cả
nước. Các chức năng này sẽ được mô tả ở phần sau.
2.1.4. Các hệ thống xác lập theo quan hệ vùng lãnh thổ
Quan hệ vùng lãnh thổ không chỉ phản ánh quan hệ không gian địa lý, mà
còn phản ánh quan hệ đặc điểm văn hoá, phát triển kinh tế - xã hội. Với các quan
hệ này, hệ thống CSĐTGV có cấu trúc bao gồm: Các CSĐTGV các tỉnh đồng bằng
Bắc Bộ, Trung Bộ, Trung Trung Bộ, các tỉnh Nam Trung Bộ, các tỉnh Đông Nam
Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh Tây
Nguyên.
Với đặc điểm của loại quan hệ này, các hệ trong cấu trúc này khi hoạt động
sẽ đóng góp được nhiều kết quả về nghiên cứu nhu cầu bồi dưỡng, đào tạo, về biên
soạn tài liệu bồi dưỡng; về tổ chức bồi dưỡng; hỗ trợ nguồn nhân lực; về biên soạn
các chuyên đề, môn học tự chọn trong chương trình giáo dục các cấp học...
2.1.5. Cấu trúc hệ thống được thiết lập theo phân cấp đào tạo GV theo
các trình độ khác nhau
Với quan hệ phân cấp trình độ đào tạo này có thể tổ chức các hoạt động đào
tạo liên thông phối hợp phát triển chương trình, biên soạn giáo trình, hỗ trợ đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy, tổ chức nghiên cứu khoa học về những
12
Các giải pháp nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên
Hình 3. Hệ thống cấu trúc theo phân cấp đào tạo
vấn đề liên quan để sự phát triển trình độ đào tạo, về nghiên cứu ứng dụng những
thành tựu về khoa học giáo dục, tổ chức chia sẻ thông tin khoa học, v.v...
2.1.6. Cấu trúc hệ thống theo quan hệ các nhóm ngành đào tạo
Đây là một loại quan hệ quan trọng vì khi thiết lập cấu trúc này sẽ tạo cho
các hệ con theo nhóm ngành giải quyết được nhiều vấn đề cho ngành liên quan đến
phát triển chương trình đào tạo GV; phát triển chương trình giáo dục các cấp học,
liên kết biên soạn giáo trình, sách giáo khoa chuyên ngành cho các cấp học, chia sẻ
các nguồn lực, kinh nghiệm đào tạo, trao đổi học thuật cho từng lĩnh vực chuyên
sâu, tổ chức các nghiên cứu về khoa học chuyên ngành, khoa học giáo dục đào tạo
chuyên ngành, v.v...
Cấu trúc hệ thống theo quan hệ này có thể mô tả như sau:
Hình 4. Cấu trúc hệ thống theo quan hệ nhóm ngành đào tạo
2.1.7. Xác định hệ thống theo phân cấp quản lý
Theo phân cấp quản lý có quan hệ giữa các CSĐT trực thuộc Bộ GD&ĐT,
trực thuộc Tỉnh, trực thuộc trường Quốc gia, trực thuộc trường vùng.
Tạo được cơ cấu theo quan hệ này sẽ thuận lợi trong việc phối hợp nguồn lực
đa dạng giữa các CSĐT GV, đặc biệt sự hỗ trợ chia sẻ nguồn lực giữa các cơ sở lớn
do Bộ GD&ĐT quản lý, cho các cơ sở do địa phương quản lý. Quan hệ này được
thiết lập sẽ thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa các CSĐT, bồi dưỡng GV và
giữa các cơ sở này với nhà trường, các cấp học, đặc biệt trong các cuộc đổi mới, cải
cách giáo dục. Để phát triển hiệu quả quan hệ này nhằm thực hiện các nhiệm vụ
13
Đinh Quang Báo
của toàn ngành giáo dục. Trong lịch sử phát triển ngành SP, đặc biệt Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khóa 8 đã quyết nghị xây dựng một
số trường ĐHSP trọng điểm với chức năng đầu tàu, hỗ trợ thúc đẩy cả hệ thống
SP nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng GV và CBQLGD các cấp học, ngành học.
Từ năm 1998, Chính phủ đã quyết định tách ĐHSP Hà Nội và ĐHSP thành phố
Hồ Chí Minh khỏi ĐH Quốc gia Hà Nội và ĐH Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
để xây dựng thành hai trường ĐHSP trọng điểm. Việc tách và xây dựng hai trường
ĐHSP trọng điểm quốc gia là kết quả của chủ trương phát triển hệ thống SP - hệ
thống có tổ chức, có chức năng và cơ chế phù hợp với chiến lược phát triển, nâng
cao chất lượng đội ngũ GV của đất nước.
Từ việc xác định các bậc hệ thống theo các logic quan hệ nêu trên cho thấy
mối quan hệ giữa cấu trúc và chức năng của mỗi bậc hệ thống. Khi thiết kế cấu trúc
của hệ thống lớn và hệ thống con luôn luôn định hướng kỳ vọng làm xuất hiện nhiều
chức năng tác động đến nền GD nói chung và đặc biệt tác động đó được thể hiện
qua chức năng phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQLGD cho đất nước. Đó chính là
biểu hiện của năng lực của hệ thống CSĐTGV.
2.2. Xác định chức năng của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên
Giải pháp xác định cơ cấu tổ chức hệ thống và giải pháp xác định chức năng
thực chất là thiết lập mối quan hệ giữa cấu trúc và chức năng của hệ thống. Hiệu
quả của hai giải pháp này phụ thuộc lẫn nhau và nhiều hay ít phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó rất quan trọng tạo được logic quan hệ Nhân - Quả, và theo đó mối
quan hệ Cấu trúc - Cấu trúc, Cấu trúc - Chức năng và Chức năng - Chức năng
được hình thành một cách tự nhiên, tự giác xuất phát từ nhu cầu tự nhiên của
cả hệ thống lớn và các hệ thống con. Điều này rất đáng quan tâm khi nghiên cứu
đề xuất các giải pháp trong bối cảnh sự phân cấp quản lý giáo dục đang diễn ra
theo xu hướng tăng dần quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục
và CSĐTGV, đặc biệt các trường ĐH. Hơn nữa hoạt động với động cơ từ nhu cầu
tự thân thì bao giờ cũng mang lại hiệu quả thiết thực, kết quả hoạt động dễ được
triển khai, phát triển trong thực tiễn giáo dục. Trong bối cảnh cơ chế quản lý đang
biến đổi đó cũng nảy sinh vấn đề từ thực tiễn mà những nhà quản lý, nhà giáo dục
đều phải quan tâm nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn. Vấn đề đó là: Liệu việc đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV - yếu tố quyết định chất lượng giáo dục sẽ trao quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các CSĐT, bồi dưỡng đến đâu?. Nói cách khác cơ
chế quản lý Nhà nước đối với đào tạo, bồi dưỡng GV sẽ như thế nào cho phù hợp
với nguyên tắc: “Đội ngũ GV là công cụ trực tiếp” của ngành giáo dục để bảo đảm
chất lượng giáo dục quốc gia. Đề tài này không trực tiếp nghiên cứu vấn đề này,
nhưng khi đề xuất các giải pháp hệ thống thì quán triệt một cách sâu sắc nguyên
tắc này với mong muốn Bộ GD&ĐT sử dụng các CSĐTGV theo cách điều khiển
một hệ thống chứ không theo kiểu “đánh lẻ”. Trong thực tiễn từ khi Bộ giáo dục
nhập với Bộ ĐH và trung học chuyên nghiệp, đặc biệt từ khi Vụ GV giải thể thì
14
Các giải pháp nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên
việc sử dụng, quản lý các CSĐTGV không bằng tiếp cận hệ thống. Tình trạng sử
dụng đơn lẻ từng cơ sở, thậm chí từng cán bộ, giảng viên của các trường SP trong
triển khai những chương trình, dự án lớn của ngành GD như cải tiến chương trình
giáo dục phổ thông, bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ GV khá phổ biến. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân của hiện tượng các trường SP hoạt động “không
đồng pha” với đổi mới, cải cách giáo dục các cấp học, thậm chí có ý kiến đánh giá
là “SP đứng ngoài cuộc” hay “SP lạc hậu so với phổ thông” ở một số lĩnh vực.
Với các nhận xét trên đây, việc đề xuất các chức năng, nhiệm vụ của hệ thống
CSĐTGV sẽ có nhiều chức năng không nhấn mạnh tính quản lý hành chính của
giải pháp mà nhấn mạnh tính hợp tác “hiệp hội”. Điều đó không hàm ý không cần,
hoặc tách rời khỏi sự quản lý Nhà nước của Bộ GD&ĐT mà kinh nghiệm các nước
tiên tiến cho thấy tính hiệp hội nghề nghiệp đã phát huy nhiều mặt trong lĩnh vực
phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQLGD. Ở đây Nhà nước (cấp chính quyền) các
cấp chỉ giám sát, tạo cơ hội và sử dụng tiềm năng của các hiệp hội nhằm phát huy
tối đa năng lực của từng CSĐTGV trên tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù
hợp với pháp luật.
Các chức năng của hệ thống CSĐTGV là những chức năng của một tổ chức
hệ thống, nghĩa là các chức năng này chỉ bộc lộ khi các CSĐTGV được liên kết với
nhau theo những cơ chế nhất định. Trên 60 năm kể từ ngày Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ra sắc lệnh số 194/SL ngày 8 tháng 10 năm 1946 về việc thành
lập ngành học SP, các CSĐTGV ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng,
cùng theo đó mối liên hệ giữa các cơ sở đó cũng phát triển ứng với từng bối cảnh
của từng giai đoạn phát triển ngành giáo dục. Có một xu hướng có thể nhận ra là
mối quan hệ giữa các CSĐTGV càng được tổ chức chặt chẽ thì sự đóng góp cho
ngành GD cho từng cơ sở, các cơ sở đó càng lớn, càng có ý nghĩa. Giai đoạn gần
đây có thể do xu hướng tăng quyền tự chủ cho các trường ĐH nên phần nào giảm
đi mối quan hệ có tính tổ chức giữa các trường SP. Nhận xét này ra đi từ việc đối
chiếu với các giai đoạn trước, từ quan sát, theo dõi thực tiễn, từ ý kiến của một số
nhà SP, CBQLGD, nhất là của chính các trường SP. Gần đây trong nhiều hội thảo,
nhiều văn bản quản lý của ngành đều nhấn mạnh đề cập đến vấn đề củng cố hoạt
động của các trường SP theo hướng có tổ chức, được quản lý chặt chẽ hơn để thực
hiện nhiều nhiệm vụ lớn cho ngành. Những nguồn thông tin đó, đặc biệt qua những
đóng góp của ngành học SP trên 60 năm qua, của nhu cầu thực tiễn cho thấy cần
phải tổ chức các CSĐTGV với cơ chế quản lý phù hợp trong thời đại mới để giao
cho tổ chức đó thực hiện các nhiệm vụ chiến lược của ngành trong lĩnh vực giáo dục
GV và giáo dục các cấp học.
Điều cần nhấn mạnh là làm việc đó không chỉ tạo tình huống, cơ hội cho các
CSĐTGV thực hiện nhiệm vụ cho ngành giáo dục, mà cũng chính là tăng cường
tiềm lực phát triển chất lượng đào tạo của từng CSĐT đó. Đây là quan điểm cần
được quán triệt. Khi tìm các giải pháp nâng cao chất lượng hệ thống CSĐTGV,
15
Đinh Quang Báo
chúng tôi quán triệt tiếp cận hoạt động, theo đó để phát triển năng lực hệ thống
thì cần tạo cơ hội để hệ thống đó tham gia giải quyết các nhiệm vụ của ngành.
Để thực hiện các nhiệm vụ đó có hiệu quả như trên, hệ thống CSĐTGV phải thực
hiện hai chức năng chính: nghiên cứu và triển khai trong các lĩnh vực đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên. Giáo dục GV và giáo dục các cấp học (mầm non, phổ thông) có
quan hệ Nhân - Quả, là động lực phát triển của nhau. Nghiên cứu và triển khai kết
quả nghiên cứu do cùng một chủ thể - hệ thống CSĐTGV sẽ có tác dụng nhiều mặt
quan trọng, đó là:
- Tính mục đích của hoạt động được xác định rõ ràng kéo theo tính tự giác,
chủ động, sáng tạo càng cao do đó hiệu quả càng lớn, càng thiết thực.
- Tạo được kênh thông tin phản hồi phong phú giúp cho việc điều chỉnh, hoàn
thiện kết quả nghiên cứu và kết quả ứng dụng. Đó là những thông tin phản hồi giữa
nghiên cứu với kết quả ứng dụng, giữa lý thuyết với thực tiễn, giữa đào tạo ở trường
SP với giáo dục các cấp học. Một trong những khâu yếu nhất trong quá trình đào
tạo GV là mối quan hệ giữa SP với PT, mầm non.
- Tạo sự gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu và triển khai những vấn đề của
ngành giáo dục không chỉ là nguyên tắc của nghiên cứu khoa học mà còn là tạo cơ
hội hợp tác, liên kết giữa các CSĐT với các cơ sở có chức năng chính là nghiên cứu
khoa học giáo dục. Ý tưởng chuyển các viện nghiên cứu vào các trường ĐH hoặc
thành lập viện nghiên cứu trong các trường ĐH chính là để thiết lập mối quan hệ
đó. Thực tiễn nước ta trong thời gian qua nếu thiết lập được quan hệ này chắc chắn
thì sẽ giải quyết được nhiều việc cho Bộ GD&ĐT.
- Gắn nghiên cứu với triển khai cũng là một giải pháp quan trọng, gắn các cơ
sở nghiên cứu, đào tạo bồi dưỡng với các nhà trường của các cấp học một cách tích
cực. Trong quan hệ này các CSĐTGV, nghiên cứu khoa học giáo dục, các CSĐT,
bồi dưỡng CBQLGD cùng hợp tác nghiên cứu với các nhà trường của các cấp học.
Lý thuyết hệ thống đã chỉ ra rằng một hệ thống tồn tại, phát triển, tự điều chỉnh
được khi thiết lập được quan hệ với môi trường trong đó, và với các hệ thống khác.
Trong quan hệ đó giá trị trao đổi thông tin có ý nghĩa quan trọng quyết định sự
tồn tại của tổ chức hệ thống. Trong trường hợp hệ thống CSĐTGV, thì việc thiết
lập quan hệ với hệ thống giáo dục các cấp học được coi là nguyên lý đảm bảo sự
vận hành phát triển, tồn tại của cả hai hệ. Nguyên lý này là không mới nếu chỉ giải
thích như là quan hệ Đào tạo – Sử dụng một cách tuyến tính. Sẽ là mới nếu quan
hệ đó được thiết lập với ý tưởng giữa Hệ với Hệ (Hệ CSĐT GV với Hệ giáo dục cấp
học), với ý tưởng cùng tác động với những hoạt động cụ thể trong giáo dục, đào
tạo, bồi dưỡng GV và CBQLGD, trong triển khai các chương trình, cải cách, đổi
mới giáo dục. Sẽ là mới nếu quan hệ đó là kênh thông tin ngược của nhau để điều
chỉnh, để hoàn thiện quá trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng GV.
Khi xác định chức năng cho hệ thống CSĐTGV, chúng tôi quán triệt các ý
tưởng mới này. Từ các quan điểm nêu trên, đề tài đề xuất một số chức năng chính
16
Các giải pháp nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên
của hệ thống CSĐTGV sau đây:
1. Nghiên cứu chiến lược phát triển hệ thống CSĐTGV để tư vấn cho Bộ
GD&ĐT hoạch định chính sách, giải pháp quản lý nhằm phát triển công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV và GD.
2. Phát triển đội ngũ giảng viên cho các CSĐTGV.
3. Phối hợp, chia sẻ, phát huy các nguồn lực phục vụ cho nghiên cứu khoa
học, đào tạo, bồi dưỡng GV, CBQLGD. Các nguồn lực đó là đội ngũ giảng viên,
nghiên cứu viên, chương trình, giáo trình, tài liệu, cơ sở vật chất phục vụ nghiên
cứu, đào tạo chuyên sâu, v.v...
4. Nghiên cứu để tư vấn cho Bộ GD&ĐT giải quyết những vấn đề liên quan
đến đội ngũ GV, CBQLGD (Phát triển mạng lưới CSĐT, bồi dưỡng GV, CBQLGD;
Quản lý việc cấp phép hành nghề GV; Xây dựng tiêu chí kiểm định chất lượng các
CSĐT, bồi dưỡng GV, CBQLGD và tổ ch