Bài viết góp phần làm rõ những giá trị lịch sử - văn hóa của giếng làng trong đời sống văn
hóa vật chất và tinh thần của các thế hệ cư dân làng xã người Việt nói chung và cộng đồng cư
dân làng xã ở xứ Nghệ nói riêng suốt dòng chảy lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Từ đó, chỉ ra một vài nguyên nhân dẫn đến sự biến mất của không ít giếng làng xưa trên
địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và đề xuất một vài ý kiến với hy vọng một trong những di sản
vô giá mà ông cha để lại sớm được phục hồi, góp phần làm cho bức tranh làng Việt ngày càng
trở nên tươi đẹp, đáng sống trong công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 192 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cần bảo tồn, phát huy những giá trị lịch sử - văn hóa của giếng cổ ở Nghệ An - Hà Tĩnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [39]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. Giếng là tài sản - hồn vía của cư dân làng xã
xứ Nghệ tự ngàn đời nay
Trên địa bàn huyện Diễn Châu (Nghệ An), tại khu
di tích đền Cuông thờ vua An Dương Vương vẫn còn
giữ một ngôi giếng cổ gắn với nhiều truyền thuyết lịch
sử - văn hóa từ thời An Dương Vương cho đến thời
Nguyễn ở thế kỷ XIX. Tại Bãi Chùa, trên đảo Song
Ngư (thị xã Cửa Lò) có ngôi chùa cổ được cho là xây
dựng vào thế kỷ XIII dưới thời Trần. Ngay trong
khuôn viên nhà chùa, còn có ngôi giếng cổ được
nhân dân đặt tên là giếng Ngọc, nước trong vắt, ngọt
mát, bốn mùa không lúc nào cạn. Huyền tích, huyền
sử cho rằng, các nàng tiên khi rời cõi tiên xuống
chiêm nghiệm muôn vàn cảnh đẹp nơi hạ giới từng
đến đảo Song Ngư để soi mình và tắm
ở giếng Ngọc này? Còn các thế hệ ngư
dân ở Nghệ An, Hà Tĩnh từ ngàn xưa tới
nay thường cho thuyền cập đảo để lấy
nước dùng trong mỗi lần ra khơi khai
thác các nguồn lợi từ biển. Tại chùa
Hương Tích, trên núi Hồng Lĩnh, bên
cạnh suối Hương Tuyền còn có Am thờ
Công chúa Diệu Thiện, con gái của Sở
Trang Vương (?- 591TCN) cùng ngôi
giếng thần gắn với bao truyền thuyết
dân gian. Những dấu tích, phế tích lịch
sử này có trước mấy thế kỷ khi vua An
Dương Vương để mất nước(1).
n Nguyễn Quang Hồng
Bài viết góp phần làm rõ những giá trị lịch sử - văn hóa của giếng làng trong đời sống văn
hóa vật chất và tinh thần của các thế hệ cư dân làng xã người Việt nói chung và cộng đồng cư
dân làng xã ở xứ Nghệ nói riêng suốt dòng chảy lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Từ đó, chỉ ra một vài nguyên nhân dẫn đến sự biến mất của không ít giếng làng xưa trên
địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và đề xuất một vài ý kiến với hy vọng một trong những di sản
vô giá mà ông cha để lại sớm được phục hồi, góp phần làm cho bức tranh làng Việt ngày càng
trở nên tươi đẹp, đáng sống trong công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay.
CẦN BẢO TỒN, PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA CủA GIếNG Cổ
ở Nghệ An - Hà Tĩnh
Giếng Động Sơn ở xã Trung Phúc Cường, huyện Nam Đàn
được đánh giá xếp vào hàng đệ nhất giếng, hiếm có ở Nghệ An
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [40]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Đó là chưa nói tới hàng trăm dấu tích, phế tích và
cả một số ít ngôi giếng cổ vẫn còn được giữ nguyên
cho tận ngày nay dọc hai bên sườn các dãy núi lớn như:
Ngàn Hống, Thiên Nhẫn, Đại Huệ, Đại Hải, Giăng
Màn..., hay các ngọn núi nhỏ như: Dũng Quyết (thành
phố Vinh), Thành Sơn (núi Rum, núi Nghĩa Liệt, Hưng
Nguyên), Chung Sơn (Kim Liên, Nam Đàn), Tán Sơn,
Nhuệ Sơn, Hùng Sơn (Nam Đàn), Ngũ Mã, Ngọc Sơn,
Phượng Hoàng (Thanh Chương), Gám Sơn (núi Gám,
Yên Thành)... gắn với công cuộc khai cơ, lập làng của
các thế hệ cư dân ở lưu vực sông Lam từ thời Hùng
Vương dựng nước tới nay.
Theo kết quả khảo sát, điền dã của chúng tôi, tại địa
bàn các huyện: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc,
Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Đô Lương,
thị xã Hoàng Mai, thị xã Cửa Lò và thành phố Vinh,
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thông thường,
trên địa bàn 1-2 thôn, làng, xã ở các huyện trung du,
đồng bằng Nghệ An có từ 1-2 giếng cổ. Giếng thường
có hình tròn, hoặc hình vuông, một số giếng trên tròn
dưới vuông, có chiều rộng và chiều sâu khác nhau và
thường tọa lạc ở những nơi đắc địa, thuận tiện cho cư
dân trong làng khai thác nguồn nước trong lành từ
giếng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của gia đình, dòng
họ suốt từ thế kỷ này đến thế kỷ khác. Cư dân làng xã
thường dùng đá ong, đá núi, đá sò, hoặc gạch nung theo
phương pháp thủ công truyền thống, chèn ghép từ dưới
đáy giếng lên đến thành giếng mà không dùng các loại
vôi, vữa hay chất dính kết. Thành giếng cũng được
ghép bằng các tảng đá ong, đá sò hay các viên đá núi,
gạch và thường chỉ cao hơn mặt đất từ 0,3-1m nhằm
ngăn các loại đất đá, rác bẩn trôi vào giếng và thuận
tiện cho người dân khi sử dụng(2).
Trong tâm thức của người Việt nói chung, cộng
đồng cư dân xứ Nghệ nói riêng, tự ngàn đời nay, giếng
nước của làng, xã là tài sản chung của tất cả các thành
viên trong làng. Từ khi cất tiếng khóc chào đời, dù là
nam hay nữ đều được ông bà, cha mẹ cho tắm nước
giếng làng. Tại mỗi giếng làng, thường có sẵn một
chiếc gàu (đài) làm (chằm) từ vỏ (bẹ) cây cau, ở giữa
có một thanh tre, dùng để buộc dây và một đoạn dây
thừng từ mây, hay những sợi giang vót mỏng bện thành
(tiếng địa phương gọi là chạc mụi, chạc cày) thậm chí
là bằng một tàu chuối khô... Mỗi buổi sáng mai hay
vào lúc chiều tối hoàng hôn, các bà, các mẹ, các chị,
đòn gánh trên vai, mang lu sành hay nồi đất, nhà giàu
có dùng nồi đồng, từ muôn ngõ, ngách
trong thôn, làng tập trung về giếng để
tắm, giặt, vo gạo, rửa rau, trò chuyện râm
ran... Sau đó, lấy nước đổ đầy các lu, nồi,
rồi gánh nước thoăn thoắt theo lối nhỏ trở
về nhà. Trong nhà thường có sẵn một vài
chiếc lu, vại hay chum sành để đựng
nước. Hạnh phúc dung dị của bao thế hệ
cha ông ở làng xã chỉ là: “Cơm ngày ba
bữa/ Đỏ lửa ba lần” hay “Nước giếng
làng ta mát/ Cổng làng ta uy nghi/ Đa
làng ta đâm chồi”...
Giống như các thế hệ cư dân làng xã
ở những vùng miền khác, người Nghệ
xưa chỉ dùng nước giếng để nấu cơm,
canh, nấu rượu... nấu nước chè xanh, chè
vối, chè cỏ... không mấy ai nấu nước sôi
để uống. Nước giếng làng mát ngọt có
sẵn trong các chum, vại. Ngay cạnh đó đã
có sẵn chiếc gáo dừa, hoặc gáo nứa, tre,
một vài chiếc bát sành, chỉ cần múc đổ
vào là uống, ngày này qua năm khác, trẻ
cũng như già, chẳng phân biệt giàu nghèo
thấp hèn. Mỗi năm một lần (thường vào
mùa hè), cư dân làng xã chọn ngày tốt,
sau khi làm lễ xin Thần giếng, thần
Hoàng làng, cùng nhau vét (khảo giếng)
- tức là cùng một lúc có nhiều đàn ông
trong làng dùng gàu (khau) giai, gàu
sòng, hay gàu (đài) múc sạch nước giếng,
sau đó, thanh niên trong làng xuống giếng
vét sạch bùn đất, để đảm bảo cho nguồn
nước luôn trong, mát, không bị hôi, tanh
vì mùi bùn, đất, lá cây... Chỗ nào thành
giếng bị sạt lở thì dùng gạch, đá, chèn
ghép lại như cũ. Các cụ gọi là khơi thông
long mạch của làng với ước nguyện cư
dân làng xã cả năm làm ăn gặp nhiều may
mắn, vạn vật sinh sôi, cuộc sống mọi nhà
no đủ, thanh bình...
Các thế hệ học trò người Nghệ xưa nổi
tiếng với truyền thống hiếu học, khổ học,
thi cử đỗ đạt, đem hết Tâm - Tài giúp dân
giúp nước. Khảo sát tại các làng xã nổi
tiếng có nhiều dòng họ khoa bảng ở các
huyện: Quỳnh Lưu, Yên Thành, Diễn
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [41]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Châu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh
Chương (Nghệ An), Đức Thọ, Nghi Xuân, Hương Sơn,
Thạch Hà (Hà Tĩnh)..., mỗi làng khoa bảng, dòng họ
khoa bảng đều gắn với 1-2 giếng làng. Điều khá đặc biệt
là, cho dù trên địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh có khá nhiều
dòng họ trâm anh, thế phiệt, từng có lịch sử định cư từ
300-400 năm đến 600-800 năm, sản sinh cho quê
hương, đất nước nhiều hiền tài, trong đó có không ít
người làm đến Tể tướng, Thượng thư... thường xuyên
cùng nhà vua bàn chuyện quân cơ, quốc sự, nhà thờ Đại
tôn, Trung tôn bề thế, uy nghi, ruộng họ có tới vài chục
mẫu Nhất đẳng điền..., nhưng chưa có dòng họ nào đào
hẳn một cái giếng để con cháu trong dòng họ dùng riêng.
Có chăng, họ chỉ bỏ tiền để cùng dân làng đào chung
một chiếc giếng, hoặc sửa sang lại giếng cũ để cả làng
cùng sử dụng từ đời này qua đời khác(3).
Mỗi gia đình, gia tộc, dòng họ đều dùng nước giếng
làng để thờ cúng ông bà tổ tiên. Rộng hơn, tất cả các
loại hoa quả, lễ vật... mà cư dân làng xã dùng để dâng
tế các vị thánh, thần (bao gồm cả Nhiên thần và Nhân
thần) cũng như chư vị Đức Phật suốt xuân thu nhị kỳ ở
hàng ngàn đền, miếu, đình, chùa lớn nhỏ ở lưu vực sông
Lam suốt từ thế kỷ này đến thế kỷ khác đều được rửa
sạch, hoặc nấu... từ nguồn nước tinh nguyên, trong suốt
ở hàng trăm, hàng ngàn giếng cổ tại các làng, xã. Khi
toàn bộ dân làng nhất tâm vạn người như một dốc hết
sức mạnh vật chất và tinh thần cùng toàn dân đánh giặc,
bảo vệ quê hương, đất nước, thì nước giếng làng dùng
để vo gạo, thổi cơm nuôi quân... Giếng làng của người
Việt cổ nói chung, người Nghệ nói riêng ôm chứa biết
bao giá trị lịch sử - văn hóa của các thế hệ cư dân làng
xã tiếp nối. Đi ra khỏi làng, người ta nhớ về giếng làng,
cổng làng, đình làng... khi về đến làng dù già hay trẻ,
gái hay trai đều tìm đến giếng làng để được rửa, được
uống những ngụm nước ngọt lành. Giếng/cổng/
đình/đền thờ/chùa trở thành tài sản vô giá của cư dân
làng xã và thực sự trở thành hồn vía của làng, bởi vậy
không ít làng xã ở Nghệ An, Hà Tĩnh xưa khi soạn
Hương ước, Khoán ước thường đưa ra những điều
khoản cụ thể buộc tất cả các thành viên trong làng phải
tuân thủ nghiêm ngặt để bảo vệ nguồn nước trong sạch
từ giếng làng(4).
2. Giếng làng, đã, đang tiếp tục bị lãng quên,
biến mất
Theo sách: “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX”,
trấn Nghệ An (bao gồm cả Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay)
đầu thế kỷ XIX có 5 phủ, 16 huyện, 17
tổng, 1.125 xã. Trong đó, huyện Kỳ Hoa
có 6 tổng, 173 xã, thôn, trang, phường,
trại, giáp, tích, vạn. Huyện Thạch Hà có
7 tổng, 54 xã, thôn, trang, sở, giáp, đội,
vạn. Huyện Thanh Chương thuộc phủ
Đức Quang có 6 tổng, 105 xã, thôn, trang,
sách, giáp, sở, vạn, nậu. Huyện Chân Lộc
có 4 tổng, 66 xã, thôn, phường, trang.
Huyện Thiên Lộc có 7 tổng, 85 xã, thôn,
phường, trang, trại, vạn (không kể 5 xã,
thôn trong huyện đã phiêu bạt). Huyện
Hương Sơn có 8 tổng, 49 xã, thôn, vạn,
giáp, phường. Huyện La Sơn có 7 tổng,
60 xã, thôn, trang. Huyện Nghi Xuân có
5 tổng, 45 xã, thôn, trang. Phủ Anh Đô có
2 huyện: Huyện Hưng Nguyên có 7 tổng,
86 xã, thôn, phường, vạn, tộc: Huyện
Nam Đường có 8 tổng, 90 xã, thôn,
phường, trại, sách, giáp, vạn. Phủ Diễn
Châu có 2 huyện: Huyện Quỳnh Lưu có
4 tổng 69 xã, thôn, giáp, phường, sách,
trang, trại: Huyện Đông Thành có 7 tổng,
242 xã, thôn, trang, giáp, sách, phường.
Phủ Trà Lân có 4 huyện: Huyện Tương
Dương có 3 tổng, huyện Vĩnh Hòa có 3
tổng, huyện Hội Nguyên có 3 tổng, huyện
Kỳ Sơn có 5 tổng(5). Nếu chỉ tính bình
quân mỗi thôn, làng, xã có từ 1-2 giếng
cổ, thì đến khi Cách mạng tháng Tám
năm 1945 bùng nổ và thắng lợi, số giếng
làng trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà
Tĩnh vượt xa cả ngàn chiếc.
Từ nửa đầu thế kỷ XIX đến nay, trải
hơn hai thế kỷ, cùng với những biến đổi
thăng trầm của lịch sử dân tộc, duyên
cách địa giới hành chính, tên gọi các
huyện, xã, thôn, làng, trang, phường,
vạn... ở Nghệ An, Hà Tĩnh cũng nhiều lần
thay đổi. Đặc biệt, từ nửa sau thế kỷ XX,
hệ thống đình, đền, chùa, miếu mạo cùng
với cổng làng, giếng làng, cây đa làng...
ở hầu hết các làng, xã trên địa bàn hai tỉnh
Nghệ An, Hà Tĩnh lần lượt bị tháo dỡ,
phá bỏ, chặt hạ hay xuống cấp thậm chí
là chỉ còn dấu tích, phế tích hoặc biến mất
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [42]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
vĩnh viễn. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
đó, có thể nêu một vài nguyên nhân chính yếu sau đây:
- Thứ nhất, cùng với công cuộc xây dựng tổ đổi
công, tổ vần công, Hợp tác xã bậc thấp sau đó là Hợp
tác xã bậc cao từ những năm cuối của thập kỷ 50 cho
đến thập kỷ 60 của thế kỷ trước, địa vị độc tôn của
giếng làng từng bước bị suy giảm. Nguyên do là cùng
với công cuộc vận động nông dân làng xã ăn chín,
uống sôi, xây nhà vệ sinh một ngăn, hai ngăn, phòng
chống các loại dịch bệnh như: dịch tả, thương hàn, sốt
rét, đau mắt hột..., công cuộc tuyên truyền, vận động
các hộ gia đình nông dân đào giếng, xây giếng ngay
trong vườn nhà mình để lấy nước giếng nhà thay cho
giếng làng phục vụ sinh hoạt thường ngày trở thành
một phong trào quần chúng rộng rãi. Cán bộ, đảng viên
đi trước, nhân dân làng nước theo sau, kết quả là chỉ
trong một khoảng thời gian ngắn, hàng ngàn, hàng vạn
giếng lớn nhỏ được các hộ gia đình xã viên ở Nghệ An,
Hà Tĩnh đào, xây và đưa vào sử dụng. Quan niệm đào
giếng đụng chạm đến long mạch của làng từng tồn tại
nhiều thế kỷ trước trở nên lỗi thời, lạc hậu, hoàn toàn
không phù hợp với bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Tuy
nhiên, dù đã có giếng nhà thay thế, nhưng do nhiều
nguyên nhân, nước giếng làng vẫn được nhiều hộ gia
đình trong làng xã đem về sử dụng. Đặc biệt, từ ngày
5/8/1964 đến trước ngày 30/4/1975, ngoài các hộ gia
đình nông dân làng, xã, giếng làng còn là nơi cung cấp
nguồn nước uống, sinh hoạt... cho hàng vạn bộ đội,
thanh niên xung phong, dân quân, cũng như học sinh,
sinh viên từ Trường Đại học Sư phạm Vinh, Trung cấp
Sư phạm Nghệ An... các cơ quan, ban
ngành cấp tỉnh, thành phố Vinh sơ tán về
địa bàn các huyện trung du, đồng bằng ở
Nghệ An. Nhờ đó, giếng làng vẫn tiếp tục
được bảo tồn, cho dù từ những năm 60-
70, việc phá bỏ, tháo dỡ, hay chuyển mục
đích sử dụng đình, đền, chùa, miếu mạo
ở các huyện, thành thuộc 2 tỉnh Nghệ An,
Hà Tĩnh trở thành phổ biến mà hậu quả
cho đến nay chưa dễ gì khắc phục được(6).
- Thứ hai, do tư tưởng chủ quan, nóng
vội, duy ý chí và cả sự thiếu hiểu biết về
các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
mà cổng làng, giếng làng, đình làng... lưu
giữ từ nhiều thế kỷ trước, nên từ những
năm cuối thập kỷ 70 đến cuối thế kỷ XX,
các công trình kiến trúc mang đầy giá trị
nhân văn của cư dân làng xã tiếp tục rơi
vào tình trạng xuống cấp, hư hỏng, trở
thành dấu tích, phế tích, bị lãng quên hay
biến mất bởi muôn ngàn lý do khác nhau.
Các miếu thờ thần giếng, giếng làng cũng
nằm trong bối cảnh chung đó. Bước sang
thế kỷ XXI, cùng với công cuộc xây
dựng, phát triển nông nghiệp, nông thôn,
nông dân nhằm từng bước nâng cao đời
sống văn hóa vật chất và tinh thần cho
hơn 70% dân số sống ở địa bàn nông
thôn, giảm bớt khoảng cách giàu, nghèo
giữa nông thôn và thành thị, hầu hết các
lũy tre làng, vườn tạp bị đốn hạ, chặt phá,
đường làng được bê tông hóa, hàng ngàn
nhà văn hóa của các thôn, xóm, khối...
được đầu tư xây dựng ở hầu khắp các
huyện, thành, thị... Diện mạo nông thôn
làng xã ở Nghệ An, Hà Tĩnh thay đổi
nhanh chóng. Nhiều làng, xã đạt chuẩn
làng văn hóa, nhiều xã, huyện được công
nhận đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới.
Không ít làng, xã ở địa bàn thành phố
Vinh, hay tại các thị xã: Hoàng Mai, Cửa
Lò, Thái Hòa (Nghệ An), Hồng Lĩnh (Hà
Tĩnh)... hoặc trên địa bàn huyện các
huyện: Quỳnh Lưu, Diễn Châu,Yên
Thành, Hưng Nguyên, Nam Đàn... lần
lượt được dùng nước sạch do các NhàGiếng Lèn làng Vĩnh Tuy, xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành
là giếng cổ có kiến trúc độc đáo gắn liền với những huyền tích xa xưa
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [43]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
máy nước mới được đầu tư, xây dựng cung cấp.
Giếng nhà (bao gồm cả giếng đào, giếng khoan) và
số ít giếng làng còn sót lại ở các làng xã lần lượt bị
loại bỏ, bởi nguồn nước ngầm không đủ sạch, an toàn
để phục vụ cho nhu cầu dân sinh như trước.
Trong bối cảnh đó, việc bảo tồn hay không bảo tồn
giếng làng xưa đã/đang trở thành một trong những
vấn đề rất đáng được các cấp chính quyền từ làng, xã
đến huyện, tỉnh, trung ương quan tâm. Qua thực tế
điền dã, khảo sát của chúng tôi trên địa bàn một số
huyện, thành của hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, trong
vài thập kỷ qua có nhiều gia đình, hoặc hầu hết các
hộ gia đình trong một thôn, xóm đã tự nguyện bỏ tiền
của, công sức phục hồi lại giếng làng xưa. Sau khi
phục hồi nguồn nước giếng làng xưa có thể phục vụ
tắm, giặt cho một bộ phận cư dân trong làng, xã,
nhưng cũng không ít trường hợp là chỉ để lưu giữ một
phần hồn cốt của quê hương, làng xóm, trong bối cảnh
hội nhập toàn cầu. Nhân dân xem đó như là một nghĩa
cử, một trách nhiệm trong việc bảo vệ, giữ gìn những
giá trị văn hóa vật chất và tinh thần mà các thế hệ cha
anh đã để lại. Điều đáng buồn là, cho đến nay, mặc dù
đã có nhiều đề án, đề tài, dự án, công trình nghiên
cứu,... đề cập ít, nhiều đến việc đẩy mạnh công cuộc
xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông
dân trên địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh trên các lĩnh vực:
kinh tế, văn hóa, du lịch, giáo dục, y tế, an ninh, chính
trị, quốc phòng... nhưng dường như ít ai quan tâm tới
việc phục hồi, lưu giữ giếng làng xưa. Ngay cả trong
công cuộc xây dựng nông thôn mới (2010-2020), vấn
đề giữ/bỏ/khôi phục giếng làng, đình làng... dường
như cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Thậm chí các cấp chính quyền địa phương cũng
như các ban ngành chức năng cũng chưa ban hành các
văn bản hướng dẫn việc bảo vệ, phục hồi, trùng tu/hay
phá bỏ giếng làng xưa. Bởi vậy, theo thời gian, giếng
làng tiếp tục bị lãng quên, nhiều giếng làng cây cỏ mọc
um tùm, bị đất đá, rác thải vùi lấp... hoặc biến mất.
3. Một vài kiến nghị
Từ góc độ một người sinh ra, lớn lên từ làng, từng
được cùng ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè cùng trang
lứa tắm, uống... dòng nước ngọt, mát từ một số giếng
làng xưa, người viết bài này luôn mong mỏi các cấp
chính quyền cũng như các ban, ngành hữu quan sớm
có chủ trương, biện pháp đúng đắn nhằm khôi phục
lại giếng làng. Có lẽ, đó cũng là suy nghĩ của rất nhiều
người con đã và đang sống ở các làng xã
cũng như bao người đã rời làng xã dựng
nghiệp cả ở trong và ngoài nước nhưng
luôn nặng lòng nhớ về quê cha đất tổ.
Từ góc độ là người nghiên cứu, giảng
dạy lịch sử - văn hóa, người viết bài này
mong muốn các nhà khoa học thuộc nhiều
ngành khoa học khác nhau như: lịch sử,
văn hóa, nhân học, dân tộc học, kinh tế học,
chính trị học, xã hội học... sớm có các công
trình nghiên cứu khoa học mang tính hệ
thống, toàn diện về những giá trị văn hóa
vật chất và tinh thần mà cư dân làng xã đã
tạo dựng, gìn giữ suốt chiều dài lịch sử
dựng nước, giữ nước của dân tộc nói
chung. Để từ đó, có thể đề xuất các chính
sách phù hợp đối với việc bảo tồn giếng
làng - một phần không thể thiếu trong kho
tài sản, di sản vô giá của làng xã và cũng là
một phần không thể thiếu trong lịch sử -
văn hóa - văn minh của người Việt./.
Chú thích:
(1) Thái Kim Đỉnh, Chùa cổ Hà Tĩnh, Nxb Đại
học Vinh, 2017, tr.81-87.
(2) PGS Ninh Viết Giao: Làng, nông thôn Nghệ
An thời kỳ phong kiến - thực dân đến trước khi có
hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ, bài viết in trong
sách: Văn hóa làng Nghệ An, Nxb Nghệ An, 2017,
tr.25-41 và bài: Giếng làng, tr.153-167.
(3) Trong công trình: Văn hóa dòng họ Nghệ An
hay Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về dòng họ
Ngô ở Lý Trai, dòng họ Đinh, dòng họ Nguyễn
Trọng, dòng họ Hồ, dòng họ Dương,... ở Nghệ An,
Hà Tĩnh được tổ chức trong thời gian qua, chỉ đề cập
đến việc các dòng họ này mở trường học, góp tiền
của để dựng đình làng, cổng làng, đền thờ thần
hoàng, chùa làng, nhà thờ họ,... chứ không đề cập đến
việc đào giếng cho riêng dòng họ dùng (NQH chú).
(4) Ninh Viết Giao (chủ biên): Hương ước Nghệ
An, Nxb Chính tri quốc gia, Hà Nội, 1998.
(5) Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc
các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), bản dịch của Viện
Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981,
tr.98-106.
(6) GS.NGND Nguyễn Đình Chú, Những là rày
ước mai ao, in trong sách: Văn hóa Phật giáo xứ
Nghệ: Quá khứ, hiện tại và Tương lai, Nxb Hồng
Đức, 2013, tr413-423.