Câu 1. Lượng giá trị của hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa.
Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá. Vậy lượng lao động của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó và tính bằng thời gian lao động. Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một hàng hoá nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề khác nhau. làm cho thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó là khác nhau, tức là mức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Nhưng lượng giá trị của hàng hoá không do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định mà do thời gian lao động XH cần thiết. Thời gian lao động XH cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong điều kiện bình thường của XH với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong XH đó. Vậy, thực chất, thời gian lao động XH cần thiết là mức hao phí lao động XH trung bình (thời gian lao động XH trung bình) để sản xuất ra hàng hoá. Thời gian lao động XH cần thiết có thể thay đổi. Do đó, lượng giá trị của hàng hoá cũng thay đổi theo.
Có ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hoá:
Thứ nhất, đó là năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên tức là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm xuống, tức là giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm và ngược lại. Vậy, giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Mặt khác, năng suất lao động lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, trình độ trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, quy mô sản xuất. nên để tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.
22 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Câu hỏi ôn tập môn Triết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CAU HOI ON TAP MAC-LENIN 2
Câu 1. Lượng giá trị của hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa.
Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá. Vậy lượng lao động của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó và tính bằng thời gian lao động. Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một hàng hoá nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề khác nhau... làm cho thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó là khác nhau, tức là mức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Nhưng lượng giá trị của hàng hoá không do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định mà do thời gian lao động XH cần thiết. Thời gian lao động XH cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong điều kiện bình thường của XH với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong XH đó. Vậy, thực chất, thời gian lao động XH cần thiết là mức hao phí lao động XH trung bình (thời gian lao động XH trung bình) để sản xuất ra hàng hoá. Thời gian lao động XH cần thiết có thể thay đổi. Do đó, lượng giá trị của hàng hoá cũng thay đổi theo.
Có ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hoá:
Thứ nhất, đó là năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên tức là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm xuống, tức là giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm và ngược lại. Vậy, giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Mặt khác, năng suất lao động lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, trình độ trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, quy mô sản xuất... nên để tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.
Thứ hai, đó là cường độ lao động. Cường độ lao động phản ánh mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thăng của lao động. Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hoá sản xuất ra tăng lên và sức lao động hao phí cũng tăng lên tương ứng. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hoá là không đổi vì thực chất tăng cường độ lao động chính là việc kéo dài thời gian lao động. Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động. Chính vì vậy mà tăng cường độ lao động không có ý nghĩa tích cực với sự phát triển kinh tế bằng việc tăng năng suất lao động.
Thứ ba là mức độ phức tạp của lao động. Theo đó, ta có thể chia lao động thành hai loại là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Còn lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể thực hiện được. Trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trinh trao đổi mua bán, lao động phức tạp được quy đổi thành lao động giản đơn trung bình một cách tự phát.
Câu 2. Lý luận hàng hoá sức lao động và rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
SLĐ là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất.
SLĐ chỉ trở thành hàng hóa khi có 2 điều kiện sau:
Người LĐ phải là người được tự do về thân thể của mình, phải có khả năng chi phối SLĐ ấy đến mức có thể bán SLĐ đó trong một thời gian nhất định.
Người LĐ không còn có TLSX cần thiết để tự mình thực hiện LĐ và cũng không còn của cải gì khác muốn sống và tồn tai người LĐ chỉ còn cách bán SLĐ cho người khác sử dụng.
Thuộc tính hàng hóa:
Cũng như mọi loại hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do số lượng lao động XH cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Do việc sản xuất và tái sản xuất sức lao động được diễn ra thông qua quá trình tiêu dùng, sinh hoạt, giá trị sức lao động được quy ra thành giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động, để duy trì đời sống công nhân và gia đình họ cũng như chi phí đào tạo công nhân có một trình độ nhất định. Tuy nhiên, giá trị hàng hoá sức lao động khác hàng hoá thông thường ở chổ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử của từng nước, từng thời kỳ...
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng nhằm thoả mãn nhu cầu của người mua để sử dụng trong quá trình sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, khác với hàng hoá thông thường, trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn lượng giá trị của bản thân nó, phần dôi ra đó chính là giá trị thặng dư. Đây là đặc điểm riêng của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động.
Ý nghĩa:
cần phải có những giải pháp hoàn thiện cơ chế chính sách đi đôi với nâng cao chất lượng nguồn lao động tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người lao động được tự do bán sức lao động, tự do di chuyển sức lao động giữa các vùng, các miền khác nhau nhằm phát huy hết tiềm năng nguồn lực lao động của nước ta với mục đích xây dựng một thị trường lao động sôi động, ổn định và có hiệu quả tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế.
Nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lý và vận hành có hiệu quả thị trường lao động, nâng cao hơn nữa vai trò của các tổ chức đại diện cho người lao động và tổ chức đại diện cho chủ sử dụng lao động, tiếp tục hoàn thiện các chính sách thị trường lao động, chính sách tiền lương.
Câu 3. Vì sao nói: sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản?
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó.
Trong chủ nghĩa tư bản, mục đích của sản xuất không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích đó: tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản.
Tuy nhiên, do trình độ đã đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:
Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại làm cho chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh.
Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ ngày càng tăng lên và ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư.
Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hoá, trao đổi không ngang giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản chủ nghĩa phát triển bòn rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay. Các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã bòn rút chất xám, hủy hoại môi sinh, cũng như cội rễ đời sống văn hoá của các nước lạc hậu, chậm phát triển.
Câu 4. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
a. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa Xét một cách tổng quát chúng ta có thể khẳng định rằng, địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân quy định một cách khách quan vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bởi vì:
-Thứ nhất, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhấttrong các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản. Trong nền sản xuất hiện đại, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản xuất đó. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với đại công nghiệp, còn giai cấp công nhân lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại có xu hướng ngày càng được tri thức hóa. Điều này có được là do yêu cầu khách quan của sự phát triển công nghiệp trong thời đại mà khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
-Thứ hai, do không có tư liệu sản xuất nên giai cấp công nhân phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, họ bị lệ thuộc hoàn toàn trong quá trình phân phối các kết quả lao động của chính mình. Do vậy, về mặt lợi ích giai cấp công nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Xét về bản chất, họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, giai cấp công nhân chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích mà lại được cả thế giới.
-Thứ ba, giai cấp công nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động nên họ có thể tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo đông đảo quần chúng đi theo làm cách mạng, đồng thời họ cũng là người đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân Địa vị kinh tế - xã hội khách quan còn tạo ra những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân. Chính những đặc điểm này đã tạo ra khả năng để giai cấp công nhân hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân gồm:
-Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, chế độ xã hội tiên tiến nhất, do đó, họ đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân luôn phát triển và lớn mạnh không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại. Chính điều kiện làm việc ở thành thị và các khu công nghiệp giúp cho giai cấp công nhân mở rộng các quan hệ xã hội, mở mang trí tuệ. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột vì dân sinh dân chủ, cải thiện điều kiện làm việc đã tôi luyện cho giai cấp công nhân có những phẩm chất cần thiết cho cuộc đấu tranh. Lợi ích căn bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích căn bản của nhân dân lao động nên họ có đủ khả năng và điều kiện tập hợp quần chúng nhân dân làm cách mạng.
-Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách mạng triệt để.
-Thứ ba, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Môi trường làm việc của giai cấp công nhân là sản xuất tập trung cao và có trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ, làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động. Do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản - là một giai cấp có tiềm lực về kinh tế - kỹ thuật nên giai cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.
-Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế. Giai cấp công nhân ở tất cả các nước đều có chung một mục đích là giải phóng mình đồng thời giải phóng xã hội khỏi áp bức bóc lột và họ đều có chung một kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột. Và cũng do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản khi mà chúng đã liên kết với nhau thành tập đoàn tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà giai cấp công nhân càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp mình.
Câu 4. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá với tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
Hàng hóa là SP của lao động có thể thỏa mãn 1 nhu cầu nào đó của con người & đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị trao đổi(giá trị)
Giá trị sử dụng: đây là thuộc tính được bộc lộ ra bên ngoài của hàng hóa.
GTSD là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định khi nó có một hay nhiều thuộc tính tự nhiên.
Cơ sở để xác định giá trị sử dụng của hàng hóa: Do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa – chất của các hàng hóa khác nhua sẽ quy định những giá trị sử dụng khác nhau; Do tập tục và quy ước. Do đó cơ sở của GTSD hàng hóa là là do những thuộc tính tự nhiên của thực thể hàng hóa ấy quy định, vì vậy GTSD là một phạm trù mang tính chất vĩnh viễn. Con người ở bất kỳ thời đại nào cũng cần đến các GTSD khác nhau để thỏa mãn những nhu cầu phong phú của mình.
Khoa học kỹ thuật càng phát triển, con người càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của hàng hóa và dựa vào chúng để tạo ra những GTSD mới
Trong nền kinh tế hàng hóa, GTSD là vật mang giá trị trao đổi. Một vật nếu chỉ có GTSD thì chưa đủ để trở thành hàng hóa, GTSD đó phải được làm ra để trao đổi, nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi.
b) Giá trị: (là thuộc tính ẩn bên trong hàng hóa, không trao đổi, mua bán thì không biết giá trị của nó). Trao đổi là hình thức bộc lộ giá trị. Để hiểu về giá trị hàng hóa ta phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi lẫn nhau giữa các GTSD khác nhau.
VD: Mang 1m vải đổi lấy 10kg thóc, hai hàng hóa này có GTSD khác nhau nhưng được trao đổi với nhau. Như vậy chúng phải có điểm chung. Nếu gạt bỏ GTSD của hàng hóa thì mọi hàng hóa đều có điểm chung là sản phẩm của lao động, vậy thực chất của trao đổi hàng hóa là trao đổi lao động cho nhau. Để SX vải, thóc, những người lao động đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu bên trong hàng hóa làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi.
Sự trao đổi theo một tỷ lệ khác nhau là do số lượng lao động tạo ra SP (Thời gian tạo ra 2 SP) khác nhau. SP nào có hao phí lao động để SX ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
Giá trị hàng hóa là lao động của người SX hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị hàng hóa có những đặc trưng sau: Giá trị là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nó chỉ tồn tại ở những phương thức SX có SX và trao đổi hàng hóa; Giá trị hàng hóa phản ánh quan hệ SXHH, tức là mối quan hệ kinh tế giữa những người SXHH, trong nền kinh tế SXHH dựa trên chế độ tư hữu về TLSX, quan hệ kinh tế giữa người với người.
Khi tiền tệ ra đời thì giá trị biểu hiện ra bằng tiền gọi là giá cả. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi theo.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa là sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.
Thống nhất vì 2 thuộc tính cùng tồn tại trong 1 hàng hóa: là hàng hóa thì phải có hai thuộc tính nói trên. Nếu thiếu 1 trong hai thì không phải là hàng hóa. Một vật có giá trị sử dụng nhưng không do lao động của con người làm ra thì không được coi là hàng hóa(không khí, năng lượng mặt trời); Mộ vật do con người làm ra nhưng vô dụng hay không được trao đổi mua bán thì cũng không phải là hàng hóa.
Sự đối lập hay mâu thuẫn giữa hai thuộc tính được bộc lộ ra bên ngoài thông qua người SX và người tiêu dùng. Người SX tạo ra GTSD nhưng mục đích của họ là giá trị, họ quan tâm đến GTSD nhằm đạt được mục đích cuối cùng là giá trị mà thôi. Ngược lại người mua lại quan tâm đến GTSD để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng. Để có được GTSD họ phải trả giá trị cho người SX
GTSD và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá trình thực hiện chúng tách rời cả về không gian lẫn thời gian: giá trị được thực hiện trước trong quá trình SX lưu thông, GTSD được thực hiện sau trong quá trình tiêu dùng.
Mâu thuẫn được bộc lộ ra bên ngoài thành mâu thuẫn giữa chất lượng và giá cả, giữa người mua với người bán. Thông qua phát triển khoa học, kỹ thuật người ta trung hòa hai mặt đối lập giữa hai thuộc tính của hàng hóa bằng hệ thống các tiêu chuẩn.
Tính hai mặt của lao động SXHH: sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là GTSD và giá trị là vì lao động của người SXHH có tính hai mặt: LĐ cụ thể và LĐ trừu tượng. Chính tính hai mặt đó của LĐSXHH quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hóa.
LĐ cụ thể: là lao động có ích dưới những hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi LĐ cụ thể có đối tượng riêng, mục đích riêng, phương pháp riêng, kết quả riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại LĐ cụ thể khác nhau.
Đặc trưng của LĐ cụ thể: Mỗi LĐ cụ thể tạo ra một loại GTSD nhất định, LĐCT càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại GTSD khác nhau. Các LĐCT hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát triển KH – KT, các hình thức LĐCT ngày càng đa dạng, phong phú, mang tính chuyên môn hóa cao. LĐCT là một phạm trù vĩnh viễn, một hình thái không thể thiếu ở bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào, là nguồn gốc tạo ra của cải vật chất.
LĐ trừu tượng: là hao phí sức lực nói chung của con người tạo ra hàng hóa không kể hình thức cụ thể của nó.
Đặc trưng: LĐ trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi, là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa. Là LĐ đồng nhất và giống nhau về chất.
Câu 3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá trị đối với quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá; quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phự hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết để cú thể tồn tại; cũng trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá- tức là giá cả phải bằng giá trị. Quy luật giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo “mệnh lệnh” của giá cả thị t