William James Durant(5 tháng 11, 1885 – 7 tháng 11, 1981) là một nhà sử học, triết học và tác gia Hoa Kỳ. Durant sinh
tại North Adams, Massachusetts, con của cặp cha mẹ người Pháp và Canada những người đã di cư từ Queb ec đến
Mỹ. Ông đấu tranh cho việc trả lương công bằng, quyền bầu cử của phụ nữ và các điều kiện làm việc tốt hơn cho
người lao động Mỹ. Durant không chỉ viết về nhiều chủ đề mà còn tiến hành thực hiện các ý tưởng của mình. Nhiều
người cho rằng, Durant cố gắng đưa triết học đến với những người dân thường. Ông đã viết những cuốn Câu chuyện
triết học, Những lâu đài triết học, và với sự trợ giúp của vợ ông, Ariel, viết cuốn Câu chuyện văn minh. Ông cũng viết
nhiều bài báo chí. Ông đã cố gắng cải thiện sự hiểu biết những quan điểm về loài người và sự tha thưcủa người khác
cho những nhược điểm và tính bướng bỉnh của loài người.
Năm 1900, Will tốt nghiệp thầy tu dòng Tên tại Học viện Saint Peter và sau đó là Trường Saint Peter tại thành phố
Jersey , New Jersey. Năm 1905, ông trở thành một nhà xã hội. Ông tốt nghiệp năm 1907. Ông làm việc như một nhà
báo cho tờ New York Evening Journal của Arthur Brisbane với thù lao mười dollar một tuần. Khi làm việc cho tờ
Evening Journal, ông đã viết nhiều bài báo về các vụ tội phạm tình dục.
Tiếp theo, năm 1907, ông bắt đầu dạy tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Anh và hình học tại Trường Seton Hall, ở Nam
Orange, New Jersey. Durant cũng làm người quản thủ thư viện tại trường. Năm 1911 ông rời khỏi Trườngdòng. Ông
trở thành một giáo viên và người đứng đầu học sinh tại trường Ferrer Modern, một sự thử nghiệm trongviệc đào tạo
quản thủ thư viện. Alden Freeman đã tài trợ để ông đi vòng quanh Châu Âu. Tại Trường Modern, ông yêuvà cưới một
học sinh nhỏ hơn ông mười ba tuổi tên là Ida Kaufmann, sau đó ông đặt cho bà biệt hiệu là “Ariel”. Vợ chồng Durant
có một con gái, Ethel. Ariel có đóng góp quan trọng trong tất cả các tập của bộ Câu chuyện văn minh nhưng tên bà chỉ
được in trên trang bìa Tập VII, Thời đại của những lý lẽ bắt đầu.
Năm 1913, ông rời bỏ công việc giáo viên. Để kiếm sống, ông bắt đầu thuyết trình trong một nhà thờ tôn giáo để kiếm
mỗi lần năm đến mười dollar; tài liệu cho những bài giảng đó là những cơ sở ban đầu cho cuốn Câu chuyện văn minh.
Alden Freeman trả học phí để ông tốt nghiệp Đại học Columbia.
Năm 1917, khi chuẩn bị luận án tiến sỹ triết học, Will Durant đã viết cuốn sách đầu tiên của ông, Triết học và Vấn đề xã
hội. Ông tranh luận với ý kiến rằng triết học đã không phát triển bởi vì nó né tránh các vấn đề thựctại của xã hội. Ông
nhận bằng tiến sỹ năm 1917. Ông cũng làm trợ giáo tại Đại học Columbia
150 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2162 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Câu Truyện Triết Học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Will Durant
Câu Truyện Triết Học
The Story of Philosophy
TRÍ HẢI & BỬU ĐÍCH
Dịch và chú thích
NHÀ TU THƯ VÀ SƯU KHẢO
VIỆN ĐẠI HỌC VẠN HẠNH
Mục Lục
TIỂU SỬ TÁC GIẢ
CHƯƠNG I PLATON (428 – 347 BC)
CHƯƠNG II ARISTOTE ( 384 – 322 BC )
CHƯƠNG III FRANCIS BACON (1561 – 1626)
CHƯƠNG IV SPINOZA (1632 - 1677)
CHƯƠNG V VOLTAIRE ( 1694 – 1777 )
CHƯƠNG VI IMMANUEL KANT (1724 1804)
CHƯƠNG VII SCHOPENHAUER ( 1788 – 1860 )
CHƯƠNG VIII HERBERT SPENCER (1820-1903)
CHƯƠNG IX FRIEDRICH NIETZSCHE (1844 - 1900)
TIỂU SỬ TÁC GIẢ
William James Durant (5 tháng 11, 1885 – 7 tháng 11, 1981) là một nhà sử học, triết học và tác gia Hoa Kỳ.Durant sinh
tại North Adams, Massachusetts, con của cặp cha mẹ người Pháp và Canada những người đã di cư từ Quebec đến
Mỹ. Ông đấu tranh cho việc trả lương công bằng, quyền bầu cử của phụ nữ và các điều kiện làm việc tốt hơn cho
người lao động Mỹ. Durant không chỉ viết về nhiều chủ đề mà còn tiến hành thực hiện các ý tưởng của mình. Nhiều
người cho rằng, Durant cố gắng đưa triết học đến với những người dân thường. Ông đã viết những cuốn Câu chuyện
triết học, Những lâu đài triết học, và với sự trợ giúp của vợ ông, Ariel, viết cuốn Câu chuyện văn minh. Ông cũng viết
nhiều bài báo chí. Ông đã cố gắng cải thiện sự hiểu biết những quan điểm về loài người và sự tha thư của người khác
cho những nhược điểm và tính bướng bỉnh của loài người.
Năm 1900, Will tốt nghiệp thầy tu dòng Tên tại Học viện Saint Peter và sau đó là Trường Saint Peter tại thành phố
Jersey, New Jersey. Năm 1905, ông trở thành một nhà xã hội. Ông tốt nghiệp năm 1907. Ông làm việc như một nhà
báo cho tờ New York Evening Journal của Arthur Brisbane với thù lao mười dollar một tuần. Khi làm việc cho tờ
Evening Journal, ông đã viết nhiều bài báo về các vụ tội phạm tình dục.
Tiếp theo, năm 1907, ông bắt đầu dạy tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Anh và hình học tại Trường Seton Hall, ở Nam
Orange, New Jersey. Durant cũng làm người quản thủ thư viện tại trường. Năm 1911 ông rời khỏi Trường dòng. Ông
trở thành một giáo viên và người đứng đầu học sinh tại trường Ferrer Modern, một sự thử nghiệm trong việc đào tạo
quản thủ thư viện. Alden Freeman đã tài trợ để ông đi vòng quanh Châu Âu. Tại Trường Modern, ông yêu và cưới một
học sinh nhỏ hơn ông mười ba tuổi tên là Ida Kaufmann, sau đó ông đặt cho bà biệt hiệu là “Ariel”. Vợ chồng Durant
có một con gái, Ethel. Ariel có đóng góp quan trọng trong tất cả các tập của bộ Câu chuyện văn minh nhưng tên bà chỉ
được in trên trang bìa Tập VII, Thời đại của những lý lẽ bắt đầu.
Năm 1913, ông rời bỏ công việc giáo viên. Để kiếm sống, ông bắt đầu thuyết trình trong một nhà thờ tôn giáo để kiếm
mỗi lần năm đến mười dollar; tài liệu cho những bài giảng đó là những cơ sở ban đầu cho cuốn Câu chuyện văn minh.
Alden Freeman trả học phí để ông tốt nghiệp Đại học Columbia.
Năm 1917, khi chuẩn bị luận án tiến sỹ triết học, Will Durant đã viết cuốn sách đầu tiên của ông, Triết học và Vấn đề xã
hội. Ông tranh luận với ý kiến rằng triết học đã không phát triển bởi vì nó né tránh các vấn đề thực tại của xã hội. Ông
nhận bằng tiến sỹ năm 1917. Ông cũng làm trợ giáo tại Đại học Columbia.
Cuốn câu truyện triết học trở thành bestseller, giúp cho vợ chồng Durant sự độc lập tài chính cho phép họ du lịch thế
giới nhiều lần và bỏ ra bốn thập kỷ để viết cuốn Câu chuyện văn minh. Ông nghỉ dạy và bắt đầu viết mười một tập của
cuốn Câu chuyện văn minh. Will phác thảo một quyền dân sự “Tuyên ngôn của sự phụ thuộc lẫn nhau” trong những năm
đầu thập kỷ 1940, gần mười năm trước quyết định Brown (xem Brown phần Ban giáo dục) kích thích Phong trào quyền
dân sự. Bản tuyên ngôn này được trích dẫn trong Biên bản nghị viện vào ngày 1 tháng 10, 1945.
Vợ chồng Durant phấn đấu thông qua cuốn Câu chuyện văn minh để tạo dựng ra thứ mà họ gọi là “lịch sử toàn bộ”. Họ
phản đối sự “chuyên hoá” lịch sử, một sự loại bỏ trước thời hạn của thứ mà một số người đã gọi là “sự thờ cúng các
chuyên gia”. Mục đích của họ là viết một bản “tiểu sử, lý lịch” của văn minh, trong trường hợp này, phương Tây, bao
gồm không chỉ các cuộc chiến thường lệ, chính trị và tiểu sử của những điều vĩ đại và tầm thường nhất mà còn là văn
hoá, nghệ thuật, triết học, tôn giáo, và sự trỗi dậy của truyền thông đại chúng. Đa phần của Câu chuyện coi các điều
kiện sống của người dân thường qua vỏ bọc phương Tây hai nghìn năm trăm năm của họ. Họ cũng đưa ra một khung
đạo đức cứng rắn cho những vấn đề của họ, luôn luôn nhấn mạnh sự lặp lại của “sự thống trị của kẻ mạnh đối với kẻ
yếu, sự khôn ngoan đối với cái đơn giản.” Câu chuyện Văn minh là một loạt ghi chép lịch sử thành công nhất. Có
người cho rằng loạt sách này đã “đưa Simon và Schuter trở thành” như một nhà xuất bản. Bằng chứng cho điều này
rất dễ nhận thấy; hiếm khi trong thư viện Mỹ không có ít nhất một (hoặc nhiều hơn) bộ Câu chuyện văn minh. Cuốn
Rousseau và Cách mạng, (1967), tập mười của bộ Câu chuyện lịch sử của họ đã được trao giải Pulitzer về văn
chương; sau đó được Tổng thống Ford trao giải cao nhất của Chính phủ Mỹ dành cho cá nhân, Huy chương tự do của
tổng thống năm 1977. Tiếp theo cuốn Rousseau và Cách mạng họ ra một cuốn mỏng hơn về những quan sát được gọi
là Các bài học lịch sử, vừa tóm tắt, vừa phân tích các sự kiện. Mặc dù họ có ý định viết đến tận thế kỷ 20, nhưng đơn
giản họ đã hết thời gian và phải dừng ở cuốn thứ mười. Tuy nhiên họ đã xuất bản một cuốn cuối cùng, cuốn số 11,
Thời đại của Napoleon năm 1975. Hai cuốn của Will được xuất bản sau khi ông chết trong những năm gần đây là
Những trí tuệ và ý tưởng của mọi thời đại (2002) và Những anh hùng của lịch sử: Một cuốn sử vắn tắt về văn minh từ
Thời cổ đại đến buổi đầu Thời hiện đại (2001).
Ông bà Durant có câu chuyện tình yêu cũng đáng chú ý như tình bạn học; họ đã tả chi tiết chuyện này trong cuốn Tự
truyện của hai người. Họ chết cách nhau trong vòng hai tuần năm 1981 (bà vào 25 tháng 10 và ông ngày 7 tháng 11).
Mặc dù con gái họ, Ethel, và những đứa cháu cố gắng giữ kín cái chết của Ariel để Will khỏi đau đớn nhưng ông biết
được điều đó qua báo chí vào buổi chiều. Chỉ trong một tuần ông theo người vợ yêu dấu vào cõi chết ở tuổi 96. Hiếm
khi có hai học giả sống cuộc đời đáng chú ý như công việc của họ. Ông được chôn cất bên cạnh bà trong Nghĩ
atrangMemorial Park, Westwood, Los Angeles.
(Theo Wikipedia tiếng Việt)
CHƯƠNG I
PLATON
(428 – 347 BC)
1. BỐI CẢNH:
Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa
trung hải. Phía nam là hòn đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch (BC
[1]
) đó là nơi
khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ thuộc về Á châu tuy ngày nay có vẻ lạc hậu nhưng dưới thời
Platon là một lãnh thổ rất trù phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và một nền văn hoá phong phú. Về phía
tây là nước Ý giống như một toà lâu đài ở giữa biển, các đảo Sicile và nước Y-pha-nho (Tây Ban Nha). Tại những nơi
đó có những nhóm người Hy lạp sinh sống; cuối cùng là xứ Gibraltar, nơi đầy nguy hiểm cho các thuỷ thủ mỗi khi muốn
vượt eo biển này. Về phía bắc là những xứ man rợ như Thessaly, Epirus và Macédonie. Từ những xứ ấy nhiều bộ lạc
xuất phát và mở những cuộc tấn công về phía nam, những trận đánh do những văn nhân Hy lạp như Homère kể lại mà
những chiến sĩ như Périclès chỉ huy. Hãy nhìn một lần thứ hai vào bản đồ, bạn sẽ thấy nhiều chỗ lồi lõm ở bờ biển và
núi đồi trong đất liền, đâu đâu cũng có những vịnh nhỏ và những mỏm đá trồi ra biển. Nước Hy lạp bị chia cắt và cô lập
bởi những chướng ngại thiên nhiên đó. Sự đi lại và liên lạc ngày xưa khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Do đó mỗi vùng
tự phát triển lấy nền kinh tế, tự thành lập lấy nền hành chánh chính trị, tự phát huy tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ của
mình. Những quốc gia như Locris, Etolia, Phocis, Béothia v.v.
Hãy nhìn vào bản đồ một lần thứ ba và quan sát vị trí của tiểu quốc Athènes: đó là một tiểu quốc nằm về phía cực đông
của Hy lạp. Đó là cửa ngõ của Hy lạp để giao thiệp với các quốc gia thuộc vùng Á châu, đó là cửa ngõ để Hy lạp thu
nhận những sản phẩm và ánh sáng văn hoá từ bên ngoài. Ở đây có một hải cảng rất tiện lợi, hải cảng Pirus, rất nhiều
tàu bè đến trú ẩn để tránh những lúc sóng to gió lớn. Ngoài ra Pirus còn là nơi xuất phát một hạm đội chiến tranh hùng
mạnh.
Vào khoảng năm 490 trước Tây lịch, hai tiểu quốc Sparte và Athènes quên mối hận thù để hợp lực cùng nhau đánh
đuổi quân xâm lăng Ba Tư lăm le biến Hy lạp thành một thuộc địa của mình. Trong cuộc chiến tranh này, Sparte cung
cấp lục quân và Athènes cung cấp thuỷ quân. Khi chiến tranh chấm dứt, Sparte giải ngũ quân đội và chịu sự khủng
hoảng kinh tế do sự giải ngũ này sinh ra. Trong khi đó thì Athènes khôn ngoan hơn, biến hạm đội tàu chiến thành một
hạm đội tàu buôn và trở nên một nước buôn bán giàu mạnh nhất thời thượng cổ. Sparte điêu tàn trong nghề canh
nông và bị cô lập với thế giới bên ngoài, trong khi Athènes trở nên thịnh vượng và là một nơi giao điểm của nhiều
chủng tộc, nhiều nguồn tư tưởng, văn hoá, sự chung đụng nảy sinh sự so sánh, phân tích và suy nghiệm.
Những truyền thống, lý thuyết gặp gỡ nhau, chống đối nhau, tự đào thải nhau và được cô đọng lại. Trong khi có hàng
ngàn tư tưởng chống đối nhau, người ta có khuynh hướng hoài nghi tất cả những tư tưởng ấy. Có lẽ những thương
gia là những người nhiều hoài nghi nhất vì họ thấy quá nhiều, bị tuyên truyền quá nhiều, họ có khuynh hướng coi người
khác nếu không phải là những người ngu thì cũng là những người lưu manh, họ hoài nghi tất cả những nguồn tư
tưởng. Theo với thời gian họ phát triển khoa học; toán học nảy sinh nhờ sự giao hoán, thiên văn học nảy sinh với nhu
cầu hàng hải. Với sự phát triển nền kinh tế, con người có nhiều thì giờ nhàn rỗi, được hưởng nhiều tiện nghi trong một
không khí trật tự và an ninh. Đó là những điều kiện tiên quyết để nghiên cứu và suy tư. Người ta nhìn vào các ngôi sao
trên trời không những để tìm phương hướng cho chiếc tàu đang lênh đênh trên mặt biển mà còn để tìm bí mật của vũ
trụ: những triết gia Ha lạp đầu tiên là những nhà thiên văn. Aristote nói rằng sau khi thắng cuộc chiến tranh, các người
Hy lạp tìm cách phát huy chiến quả và mở rộng nỗ lực vào nhiều lãnh vực khác. Người ta cố tìm những lời giải đáp cho
những bài toán trước kia được giao phó cho các thần linh quản trị, những tế lễ tà thuyết nhường bước cho khoa học,
triết lý bắt đầu từ đó.
Khởi đầu triết lý là một môn học có tính cách vật lý, người ta quan sát thế giới hữu hình với hy vọng tìm thấy yếu tố khởi
thuỷ của tất cả vạn vật. Một lối giải đáp tự nhiên là thuyết duy vật của Démocrite (460 - 360 BC). Démocrite nói rằng:
“trong vũ trụ chỉ có nguyên tử và hư không”, đó là nguồn tư tưởng chính của Hy lạp, người ta lãng quên nó trong một
thời gian nhưng nó lại được sống dậy với tư tưởng của Epicure (342-279 BC) và Lucrèce (98-55 BC). Tuy nhiên khía
cạnh quan trọng nhất và đặc sắc nhất của nền triết học Hy lạp được thể hiện trong tư tưởng của những nguỵ luận gia
đó là những người đi lang thang rày đây mai đó để tuyên truyền cho chủ nghĩa của mình, họ gắn bó với tư tưởng của
mình hơn tất cả mọi vật trên đời. Phần đông họ là những người rất thông minh hoặc rất thâm thuý, họ bàn cãi về tất cả
những vấn đề mà người đương thời thắc mắc, họ đặt câu hỏi cho tất cả các vấn đề, họ không sợ đụng chạm đến các
tôn giáo hoặc các tư tưởng chính trị của các vua chúa, họ mạnh dạn chỉ trích tất cả các định chế xã hội hoặc lý thuyết
chính trị trước công luận. Về mặt chính trị họ được chia làm hai phái. Một phái giống như Rousseau cho rằng thiên
nhiên là tốt, văn minh xã hội là xấu, trong thiên nhiên tất cả mọi người đều bình đẳng và con người trở nên bất bình
đẳng với các định chế xã hội, luật lệ là những phát minh của những kẻ mạnh để trói buộc và thống trị kẻ yếu. Một nhóm
khác giống như Nietzsche cho rằng thiên nhiên vượt ra ngoài phạm vi của cái xấu và cái tốt, trong thiên nhiên con
người đã mất bình đẳng, luân lý là một phát minh của kẻ yếu để giới hạn và doạ nạt kẻ mạnh, sức mạnh là nền đạo
đức tối thượng và sự ao ước tối thượng của con người, và chế độ chính trị cao đẹp nhất hợp thiên nhiên nhất là chế
độ quý tộc.
Sự tấn công tư tưởng dân chủ là phản ảnh của sự thịnh vượng của một nhóm người giàu có ở Athènes họ tự lập một
đảng gọi là lực lượng những người ưu tú. Đảng này chỉ trích tư tưởng dân chủ là vô hiệu lực. Thật ra cái dân chủ mà
họ chỉ trích khác xa cái dân chủ mà chúng ta quan niệm ngày hôm nay. Trong số 400 ngàn dân của Athènes, đã có 250
ngàn thuộc vào hạng nô lệ bị tước đoạt tất cả quyền chính trị, trong số 150 ngàn người còn lại chỉ có một thiểu số
được đại diện tại quốc hội để bàn cãi và quyết định về các vấn đề của quốc gia. Tuy nhiên cái nền dân chủ còn lại đó
là một nền dân chủ có thể nói là hoàn hảo nhất từ xưa đến nay. Quốc hội có quyền tối thượng và là cơ quan tối cao của
quốc gia, tối cao pháp viện gồm trên 1000 thẩm phán (để làm nản lòng những kẻ hối lộ), số thẩm phán này được tuyển
chọn theo thứ tự ABC trong danh sách của toàn thể công dân. Không một chế độ chính trị nào dám thực hành tư tưởng
dân chủ đi xa đến mức độ ấy.
Trong cuộc chiến tranh giữa Sparte và Athènes (430 - 400 BC) lực lượng các người ưu tú của Athènes do Critias lãnh
đạo, chủ trương nên bãi bỏ chế độ dân chủ vì cho đó là mầm mống của cuộc chiến bại và thành lập một chính thể
giống như chính thể quý tộc của thành Sparte. Kết quả là nhiều lãnh tụ của lực lượng bị lưu đày. Sau khi chiến tranh
chấm dứt với sự đầu hàng của Athènes, một trong các điều kiện đình chiến là phải đại xá cho những người trong lực
lượng bị lưu đày. Những người này tôn Critias làm minh chủ và lăm le đảo chánh để thành lập một chính phủ của lực
lượng ưu tú. Cuộc đảo chánh thất bại, Critias tử trận. Critias là môn đệ của Socrate và có họ hàng với Platon.
2. SOCRATE
Nếu chúng ta suy xét trong khi ngắm bức tượng bán thân của Socrate còn sót lại trải qua bao nhiêu điêu tàn hoang
phế thì ta sẽ nhận thấy rằng Socrate có một diện mạo không đẹp đẽ gì. Một cái đầu hói, cái mặt lớn và tròn, một cặp
mắt sâu và nhìn thẳng, lỗ mũi lớn ... Cái mặt đó làm ta liên tưởng đến một người gác cổng hơn là một triết gia danh
tiếng vào bậc nhất. Nhưng nếu nhìn lại lần thứ hai ta sẽ thấy rằng, qua những nét khắc trong đá, một cái gì hoà nhã và
bình dị thoát ra từ bộ mặt đó, những nét ấy đã làm cho Socrate được hầu hết các thanh niên thành Athènes kính mến.
Ta biết rất ít về Socrate, nhưng đồng thời ta hiểu Socrate hơn triết gia có vẻ quý phái như Platon hoặc thông thái như
Aristote. Sau hơn hai ngàn năm, ta còn mường tượng được hình dáng của Socrate với chiếc áo choàng thụng thịnh
bước từng bước khoan thai trước các đền thờ, tâm tư hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi các biến cố chính trị. Ông tụ
họp những thanh niên và những học giả xung quanh mình vào những nơi có bóng mát trước cửa các đền thờ để cùng
nhau đàm đạo.
Những người đi theo Socrate thuộc rất nhiều thành phần khác nhau, chính những người này đã tạo nên nền triết lý tây
phương. Có những người con nhà giàu như Platon và Alcibiade, họ thích lối chỉ trích chế độ dân chủ của Socrate,
cũng có những kẻ về phe xã hội chủ nghĩa ưa thích nếp sống nghèo nàn của Socrate và cho đó là một dấu hiệu của sự
thánh thiện, cũng có những kẻ chủ trương diệt trật tự như Aristippe, họ chủ trương một xã hội không có nô lệ cũng
không có chủ nô lệ, tất cả đều sống tự do và không lo lắng như chính Socrate. Tất cả những vấn đề làm con người suy
nghĩ và làm cho những thiếu niên bàn cãi suốt ngày đều được đem ra mổ xẻ trong cái nhóm nhỏ ấy, họ tin tưởng một
cách thành thật rằng nếu cuộc đời mà không có bàn luận về triết lý thì đó là một cuộc đời không đáng sống. Trong
nhóm nhỏ ấy hầu hết các nguồn tư tưởng của nhân loại đều được đại diện.
Socrate làm gì để sống ? Ít ai biết đến. Ông không bao giờ làm việc, không bao giờ nghĩ đến ngày mai. Ông ăn khi
nào có người mời, có lẽ người ta rất thích mời ông vì xem ra ông cũng béo tốt phương phi như ai. Đối với vợ con thì
ông ta không được hoan nghênh lắm. Theo Xanthippe, Socrate là một kẻ du thủ du thực chỉ đem về cho gia đình một ít
tiếng tăm mà không bao giờ đem về tiền bạc hoặc lương thực. Xanthippe cũng thích đàm đạo như Socrate, những
cuộc đàm đạo này, rũi thay, không được lưu truyền. Nhưng chúng ta biết rằng bà ta yêu Socrate và rất đau buồn trước
cái chết của người bạn tinh thần.
Tại sao những môn đệ kính mến Socrate đến thế ? Có lẽ tại rằng Socrate là một người trước khi là một triết gia: ông
đã khinh thường gian nguy để cứu Alcibiade trong vòng tên đạn khói lửa, ông có tửu lượng rất khá, không từ chối mà
cũng không đi đến chỗ say sưa. Nhưng điều làm người ta yêu thích Socrate nhất có lẽ là sự khiêm nhượng của ông ta:
ông không tự cho rằng mình hiểu triết lý, ông chỉ đi tìm triết lý, ông là người thích triết lý, không phải là triết gia nhà
nghề. Một câu sấm tại đền Delphe cho biết rằng Socrate là người thông minh nhất của xứ Hy lạp. Socrate cho rằng
câu sấm này ám chỉ đến thuyết bất tri của ông ta: “Tôi chỉ biết một điều, đó là tôi không biết gì hết”. Triết lý bắt đầu khi
người ta biết hoài nghi, nhất là hoài nghi những niềm tin của chính chúng ta. Biết đâu rằng chính những niềm hy vọng
ao ước thầm kín, những khao khát đã trở thành những niềm tin đối với chúng ta ? Biết đâu rằng những tư tưởng có vẻ
khách quan chỉ là những niềm ước vọng trá hình. Sẽ không có triết lý nếu chúng ta không chịu khó đi một vòng quanh
và quan sát lại chính chúng ta: “Hãy tự biết mình !” Socrate nói thế.
Trước Socrate cũng đã có nhiều triết gia. Những người với lý luận đanh thép như Thalès và Héraclite, tế nhị như
Parménide và Zénon, sâu sắc như Pythagore và Empedocle. Nhưng phần nhiều những người ấy là những triết gia
hướng về vật lý, họ tìm bản thể của sự vật định lý và yếu tố của thế giới bên ngoài. Những nỗ lực ấy rất đáng khen,
Socrate nói, nhưng có một điều vô cùng quý giá hơn những cây cỏ, sông núi, trăng sao, đó là con người. Con người là
gì, và con người sẽ đi đến đâu ?
Rồi từ đó ông chuyên chú vào tâm hồn con người, tìm hiểu những định lý, hoài nghi những tư tưởng sẵn có. Người ta
thường nói đến hai chữ công bằng, Socrate liền hỏi công bằng là gì ? Anh hiểu gì về hai chữ ấy, tại sao anh dám đem
hai chữ ấy để giải quyết vấn đề sống chết của đồng loại ? Danh dự là gì ? Đạo đức là gì ? Bản ngã của anh là gì ? Đó
là những vấn đề đạo đức và tâm lý mà Socrate thường tự hỏi. Có những người lấy làm khó chịu về phương pháp của
Socrate, một phương pháp đòi hỏi những định nghĩa chính xác, những tư tưởng minh bạch, những phân tích xác đáng.
Họ cho rằng Socrate hỏi nhiều hơn trả lời và làm rối trí con người nhiều hơn sau khi đã thụ huấn với ông. Tuy nhiên
Socrate đã để lại cho triết học hai câu trả lời minh bạch cho hai bài toán khó khăn nhất của chúng ta: Đạo đức là gì?
Quốc gia tốt đẹp nhất là gì ?
Không một vấn đề nào thiết yếu hơn những vấn đề trên. Những nguỵ luận gia đã làm tan rã sự tin tưởng của đám thanh
niên thành Athènes đối với các vị thần thánh và những điều khoản luân lý căn cứ vào sự thưởng phạt của các vị thần
thánh, bây giờ không có lý do nào kềm giữ họ trong các hành vi của họ nếu không bị pháp luật ràng buộc. Một chủ
nghĩa cá nhân lan tràn và làm suy yếu đức tính của người Athènes khiến cho nước này trở nên một món mồi ngon của
liên bang Sparte. Về phương diện chính trị, thuyết dân chủ cực đoan đã làm say mê dân Athènes cũng đem đến nhiều
điều bất tiện. Quá nhiều quyền hành đã được giao cho quốc hội, các cuộc bầu cử được tổ chức quá vội vàng, người
có trách nhiệm như các tướng lãnh đã được tấn phong và cách chức một cách quá dễ dàng, sự chỉ định những nông
phu, thương gia làm thẩm phán trong tối cao pháp viện theo thứ tự ABC là những yếu tố làm tan rã một nền hành chính
và chính trị vững mạnh. Làm thế nào để thiết lập một nền đạo đức mới, làm thế nào để cứu vãn tình trạng suy đồi của
quốc gia do các định chế dân chủ cực đoan gây nên ?
Chính vì trả lời cho các câu hỏ