Tóm tắt: “Già hóa dân số” đang trở thành vấn đề bức thiết của Thành phố Hồ Chí Minh,
tốc độ diễn ra rất nhanh, gây ra nhiều thách thức cho tăng trưởng kinh tế cũng như hạ tầng
cơ sở và các dịch vụ an sinh xã hội. Số lượng người cao tuổi ngày càng nhiều và độ tuổi
ngày càng cao, lại mắc nhiều bệnh. Hiện nay loại hình chăm sóc tại gia đình người cao tuổi
chiếm tuyệt đại bộ phận, trên 99,5%. Tuy nhiên, nguồn lực chăm sóc của gia đình có chiều
hướng suy giảm và ngay cả với mô hình chăm sóc người cao tuổi tại gia đình cũng không
thể duy trì như lâu nay, cần được nâng cao chất lượng và thay đổi phương thức chăm sóc.
Để đảm bảo chất lượng sống người cao tuổi đòi hỏi sự trợ giúp lớn hơn nữa từ Nhà nước và
cộng đồng, cần chuẩn bị phát triển dịch vụ chăm sóc và chính sách hỗ trợ, giải pháp đồng
bộ, ngay từ bây giờ. Trách nhiệm chăm sóc người cao tuổi từ gia đình chuyển dần sang xã
hội ở một thành phố thông minh, văn minh, hiện đại.
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chăm sóc người cao tuổi trong tiến trình già hoá dân số tại thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
121
CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI TRONG TIẾN TRÌNH GIÀ HOÁ DÂN SỐ TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ThS. Lê Văn Thành
Viện Nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh
Email: thanhlv@yahoo.com
Tóm tắt: “Già hóa dân số” đang trở thành vấn đề bức thiết của Thành phố Hồ Chí Minh,
tốc độ diễn ra rất nhanh, gây ra nhiều thách thức cho tăng trưởng kinh tế cũng như hạ tầng
cơ sở và các dịch vụ an sinh xã hội. Số lượng người cao tuổi ngày càng nhiều và độ tuổi
ngày càng cao, lại mắc nhiều bệnh. Hiện nay loại hình chăm sóc tại gia đình người cao tuổi
chiếm tuyệt đại bộ phận, trên 99,5%. Tuy nhiên, nguồn lực chăm sóc của gia đình có chiều
hướng suy giảm và ngay cả với mô hình chăm sóc người cao tuổi tại gia đình cũng không
thể duy trì như lâu nay, cần được nâng cao chất lượng và thay đổi phương thức chăm sóc.
Để đảm bảo chất lượng sống người cao tuổi đòi hỏi sự trợ giúp lớn hơn nữa từ Nhà nước và
cộng đồng, cần chuẩn bị phát triển dịch vụ chăm sóc và chính sách hỗ trợ, giải pháp đồng
bộ, ngay từ bây giờ. Trách nhiệm chăm sóc người cao tuổi từ gia đình chuyển dần sang xã
hội ở một thành phố thông minh, văn minh, hiện đại.
Từ khoá: Chăm sóc người cao tuổi, thành phố thông minh, dịch vụ an sinh xã hội.
1. Giới thiệu
“Già hóa dân số” đang trở thành vấn đề bức thiết của Thành phố Hồ Chí Minh gây ra
nhiều thách thức cho tăng trƣởng kinh tế cũng nhƣ hạ tầng cơ sở và các dịch vụ an sinh xã
hội. Số lƣợng Ngƣời cao tuổi ngày càng nhiều và độ tuổi ngày càng cao. Cần có những biện
pháp tiên lƣợng để chăm sóc cho Ngƣời cao tuổi, nhất là trong điều kiện cụ thể là có nhiều
Ngƣời cao tuổi mắc bệnh mãn tính, và thậm chí nhiều bệnh cùng một lúc.
Số lƣợng Ngƣời cao tuổi ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm khoảng 500.000 ngƣời. Theo
luật Ngƣời cao tuổi thì có bốn loại hình chăm sóc Ngƣời cao tuổi 72 nhƣng hiện nay thì loại
hình chăm sóc tại gia đình Ngƣời cao tuổi chiếm tuyệt đại bộ phận, ở Thành phố Hồ Chí
Minh tỷ lệ này là trên 99,5%. Số lƣợng Ngƣời cao tuổi đƣợc chăm sóc trong các cơ sở tập
trung chiếm tỷ lệ rất thấp, ít hơn 0,5 % số Ngƣời cao tuổi toàn thành phố, chủ yếu là Ngƣời
cao tuổi neo đơn, không nơi nƣơng tựa hoặc diện chính sách. Nói cách khác, mô hình chăm
sóc ngƣời cao tuổi hiện nay chủ yếu là ở gia đình.
Tuy nhiên, nguồn lực chăm sóc của gia đình có chiều hƣớng suy giảm vì sự phát triển gia
đình hạt nhân và nhu cầu tham gia vào thị trƣờng lao động xã hội của ngƣời thân, giải phóng
72 Ngoài chăm sóc tại gia đình còn có ba nhóm mô hình chăm sóc ngƣời cao tuổi nhƣ sau: (1) Nhóm thứ nhất là các cơ
sở do các cá nhân, doanh nghiệp đứng ra tổ chức, xây dựng; (2) Nhóm thứ hai là các cơ sờ dƣỡng lão từ thiện do các cá
nhân hoặc tổ chức tôn giáo nhƣ nhà chùa, giáo hội đứng ra tổ chức; (3) Nhóm thứ ba bao gồm các sở chăm sóc, điều
dƣỡng ngƣời có công, ngƣời cao tuổi thuộc diện chính sách do nhà nƣớc đứng ra bảo trợ.
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
122
sức lao động. Hiện nay việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc Ngƣời cao tuổi chƣa đáp ứng
nhu cầu. Gia đình muốn sử dụng dịch vụ chăm sóc cho Ngƣời cao tuổi nhƣng không biết tƣ
vấn ở đâu, chọn lựa dịch vụ nào thích hợp với khả năng kinh tế cũng nhƣ chất lƣợng an toàn
dịch vụ. Ngay cả với mô hình chăm sóc Ngƣời cao tuổi tại gia đình cũng không thể duy trì
phƣơng thức nhƣ lâu nay, cần đƣợc nâng cao chất lƣợng và thay đổi phƣơng thức chăm sóc
Ngƣời cao tuổi.
Bên cạnh đó, số cơ sở phúc lợi chăm sóc ngƣời cao tuổi tại Thành phố còn ít. Những
chính sách hỗ trợ cho việc chăm sóc ngƣời cao tuổi cần đƣợc chú ý và bổ sung đầy đủ hơn.
Để đảm bảo chất lƣợng chăm sóc ngƣời cao tuổi đòi hỏi cần sự trợ giúp lớn hơn nữa từ Nhà
nƣớc và cộng đồng. Trách nhiệm chăm sóc ngƣời cao tuổi từ gia đình chuyển dần sang xã
hội.
Về chính sách luật pháp, Nhà nƣớc đã có luật Ngƣời cao tuổi, năm 2009, Chính phủ có
Nghị định số 06/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một
số điều của Luật Ngƣời cao tuổi, Thủ tƣớng Chính phủ có Quyết định số 1781/QĐ-
TTg ngày 22/11/2012 về phê duyệt Chƣơng trình hành động quốc gia về ngƣời cao tuổi Việt
Nam giai đoạn 2012 – 2020, Quyết định số: 544/QĐ-TTg, ngày 25 tháng 04 năm 2015 về
“Tháng hành động vì ngƣời cao tuổi Việt Nam”. Thành phố cũng có những văn bản tƣơng
ứng để triển khai tổ chức thu hút sự quan tâm của tổ chức, cá nhân và các tầng lớp nhân dân
tích cực tham gia chăm sóc, phụng dƣỡng và phát huy vai trò của ngƣời cao tuổi.
Đề tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống loại hình cơ sở chăm sóc ngƣời cao tuổi tại Thành
phố Hồ Chí Minh: Thực trạng và giải pháp” đƣợc thực hiện nhằm nghiên cứu, phân tích,
đánh giá thực trạng và chất lƣợng các loại hình chăm sóc ngƣời cao tuổi tại Thành phố Hồ
Chí Minh từ đó đƣa ra những đề xuất, kiến nghị và giải pháp để phát triển các loại hình này.
Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở các lý thuyết về phúc lợi, chăm sóc Ngƣời cao tuổi, thực
tiễn của thành phố và kinh nghiệm các nƣớc, đặc biệt là Nhật bản.
Ngƣời cao tuổi đƣợc nghiên cứu trong phạm vi đề án này là những ngƣời hiện đang sinh
sống tại TP HCM, ở với gia đình hoặc ở cơ sở tập trung, có hoặc không có hộ khẩu thƣờng
trú và có thời gian cƣ trú ít nhất là 6 tháng trở lên. Ngƣời cao tuổi về tạm trú để chữa bệnh,
thăm con cháu sẽ không nằm trong phạm vi nghiên cứu này. Nội dung nghiên cứu đƣợc giới
hạn ở loại hình chăm sóc đời sống ngƣời cao tuổi, từ tháng 6 năm 2016 đến 2018, thông qua
việc phân tích đánh giá các nhóm tiêu chí cơ bản: sức khỏe, vật chất và đời sống tinh thần.
Ngoài ra còn lƣu ý đến nhân sự đại diện cho một số cơ quan quản lý nhà nƣớc, gián tiếp
hoặc trực tiếp thực thi chính sách chăm sóc ngƣời cao tuổi; nhân sự cơ bản tại các cơ sở-
trung tâm chăm sóc.
Về phƣơng pháp nghiên cứu:(1) Phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng với ba bảng hỏi cấu
trúc với hộ gia đình có ngƣời cao tuổi đang sinh sống và ngƣời cao tuổi đang sống tại gia
đình, ngƣời cao tuổi đang sống ở cơ sở tập trung. Số lƣợng phiếu hỏi: 500 phiếu thông tin về
hộ gia đình và 500 phiếu cá nhân ngƣời cao tuổi sống với gia đình và 300 phiếu hỏi ngƣời
cao tuổi sống ở cơ sở. Mục đích của bảng hỏi nhằm đánh giá thực trạng ngƣời cao tuổi và
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
123
chất lƣợng chăm sóc ngƣời cao tuổi, tìm hiểu nhu cầu cần đƣợc chăm sóc của họ và khả
năng đáp ứng của các loại hình cơ sở chăm sóc; Phƣơng pháp nghiên cứu định tính: phỏng
vấn sâu, quan sát, nghiên cứu tƣ liệu sẳn có, Tƣ liệu sẵn có: Đề tài sẽ sử dụng các số liệu
thống kê của các ban ngành có liên quan, các tài liệu tổng điều tra cấp quốc gia, số liệu báo
cáo thống kê tình hình kinh tế - xã hội, số liệu của các cuộc điều tra và các nghiên cứu về
ngƣời cao tuổi tại các cấp; Số liệu trong các báo cáo của Hội ngƣời cao tuổi Việt Nam.
Nghiên cứu các mô hình chăm sóc ngƣời cao tuổi của các nƣớc trên thế giới đặc biệt với
Nhật Bản. Trên cơ sở các số liệu đƣợc thu thập và tổng hợp, đề tài phân tích, xử lý và làm rõ
vấn đề già hóa dân số, xu hƣớng phát triển của vấn đề, thực trạng chăm sóc và chất lƣợng
chăm sóc ngƣời cao tuổi Việt Nam, phân tích các tác động của chính sách đối với chăm sóc
ngƣời cao tuổi.
Về kỹ thuật chọn mẫu, với đối tƣợng ngƣời cao tuổi tại hộ gia đình, theo bốn bƣớc: Bƣớc
1: Chọn khu vực, Bƣớc 2: chọn quận/huyện của mỗi khu vực, Bƣớc 3: Chọn phƣờng/xã,
Bƣớc 4: Chọn ngƣời cao tuổi. Với đối tƣợng ngƣời cao tuổi tại cơ sở, đã phân bổ tỷ lệ phù
hợp giữa các loại hình cơ sở, bao gồm: 3 cơ sở bảo trợ do Nhà nƣớc quản lý và tổ chức vận
hành gồm: Trung tâm dƣỡng lão Thị Nghè, Trung tâm nuôi dƣỡng và bảo trợ ngƣời già
Chánh Phú Hòa, Trung tâm nuôi dƣỡng và bảo trợ ngƣời già Thạnh Lộc; 4 cơ sở bảo trợ do
các tổ chức tôn giáo vận hành, bao gồm 2 cơ sở của Phật giáo là Viện Dƣỡng lão Việt Hoa -
Chùa Lâm Quang và Mái ấm Tình ngƣời - Chùa Diệu Phát; 2 cơ sở của Thiên Chúa giáo là
Mái ấm Thiên Ân - Dòng Trinh vƣơng Mẫu Tâm và Trung tâm Dƣỡng lão tình thƣơng Vinh
Sơn; 1 cơ sở do tƣ nhân thành lập và khai thác mà ở đó ngƣời cao tuổi phải trả kinh phí là
Trung tâm chăm sóc ngƣời cao tuổi Bình Mỹ; 1 viện dƣỡng lão khác là Viện dƣỡng lão nghệ
sĩ.
Biểu đồ 6. Cơ cấu mẫu khảo sát Ngƣời cao tuổi sống tại gia đình tại 6 quận, huyện
Nguồn: Khảo sát HIDS, 2016
Bài viết này nhằm giới thiệu những kết quả chủ yếu của đề tài và đề xuất kiến nghị một số
giải pháp.
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
124
2. Một số kết quả nghiên cứu
Ngƣời cao tuổi mong muốn sống tại gia đình là vì họ còn con cháu, còn ngƣời thân thì
cho rằng con cái phải có trách nhiệm chăm sóc bố mẹ, ông bà khi họ về già. Đó là về mặt
tình cảm, ngoài ra Ngƣời cao tuổi có vai trò quan trọng trong gia đình vì vẫn hỗ trợ con cái
trông chừng nhà cửa, làm công việc nhà, trông giữ cháu, thậm chí hỗ trợ tiền hàng tháng cho
con cháu. Có những mâu thuẫn nảy sinh giữa các thành viên trong gia đình khi phân công,
phân nhiệm vai trò chăm sóc ngƣời cao tuổi, nhƣng tỷ lệ thấp. Ngay cả trong trƣờng hợp
sống tại các cơ sở thì ngƣời cao tuổi đều chung mong muốn gắn bó, liên kết chặt chẽ với gia
đình, ngƣời thân.
Nguồn thu nhập của ngƣời cao tuổi tại gia đình chủ yếu đến từ nguồn tiết kiệm, sau đó lần
lƣợt là lƣơng hƣu, công việc làm thêm hiện tại, con cháu hỗ trợ, từ họ hàng ngƣời quen hỗ
trợ, và cuối cùng là một phần nhỏ từ các tổ chức xã hội. Qua đó, phản ánh tâm lý và sự
chuẩn bị của ngƣời cao tuổi cho cuộc sống của họ, một số đã có sự chuẩn bị nhất định trƣớc
khi bƣớc vào độ tuổi nghỉ ngơi để làm sao vẫn đảm bảo đƣợc cuộc sống của mình. Tuy
nhiên, nguồn thu nhập đó cũng chỉ thoả mãn nhu cầu tối thiểu. Bên cạnh đó, một bộ phận
không nhỏ, có thể chiếm trên 60%, là những ngƣời lao động tự do, không đƣợc hƣởng bảo
hiểm xã hội, phải bƣơn chải với cuộc sống thƣờng ngày.
Hầu hết ngƣời cao tuổi sống tại gia đình lẫn tại cơ sở tập trung đều thích tham gia vào các
tổ chức chính trị - xã hội, cũng nhƣ việc tham gia các hoạt động văn hóa, tinh thần, cộng
đồng xã hội, rèn luyện sức khỏe. Họ chủ động quyết định, lựa chọn hoạt động phù hợp với
nhu cầu và sở thích của bản thân. Các thành viên gia đình cũng rất ủng hộ ngƣời cao tuổi,
thƣờng xuyên vận động ngƣời cao tuổi trong gia đình tham gia vào các hoạt động này.
Mô hình nhà dƣỡng lão chăm sóc ngƣời cao tuổi vẫn chƣa hoàn toàn phát triển hoàn
chỉnh. Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc, nuôi dƣỡng tƣ nhân vẫn còn khó khăn và chƣa
nhận đƣợc nhiều sự đồng thuận của xã hội và các chính sách khuyến khích. Mạng lƣới dịch
vụ xã hội chăm sóc riêng cho Ngƣời cao tuổi còn thiếu vắng, nguồn cung ứng chƣa tƣơng
xứng dù nhu cầu chăm sóc ngƣời cao tuổi về sức khỏe và tinh thần ngày càng lớn. Sự trợ
giúp của Nhà nƣớc và các tổ chức xã hội cũng có giới hạn nhất định. Ngƣời cao tuổi chƣa có
đủ thông tin và các xu hƣớng, mô hình để lựa chọn, chƣa quan tâm tìm hiểu dịch vụ chăm
sóc dành riêng cho họ, chƣa quan tâm chủ động định hƣớng cuộc sống khi về già. Chính vì
vậy mà họ vẫn phải đặt nhiều kì vọng vào vai trò của gia đình hơn là các hệ thống an sinh
nhà nƣớc/tƣ nhân/tự nguyện.
Ngƣời cao tuổi ngoài những nhu cầu cơ bản hàng ngày thì yêu cầu về chăm sóc sức khỏe
là vô cùng to lớn, và khía cạnh này đòi hỏi Nhà nƣớc phải chăm lo, có chính sách phù hợp,
bao gồm cả hệ thống y tế cũng phải phát triển tƣơng xứng. Do nguồn kinh phí hạn hẹp nên
công tác đầu tƣ để nâng cao cơ sở vật chất và năng lực, kỹ năng cho cán bộ, nhân viên y tế
nuôi dƣỡng, chăm sóc ngƣời cao tuổi còn hạn chế và điều này tác động không nhỏ đến chất
lƣợng dịch vụ. Nguồn nhân lực còn rất thiếu và yếu, chƣa hình thành đƣợc một ngành nghề
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
125
chuyên biệt, với các danh xƣng phù hợp. Kỹ năng của ngƣời thân chăm sóc Ngƣời cao tuổi
tại gia đình cũng chƣa đƣợc hƣớng dẫn bài bản.
Luật Ngƣời cao tuổi có hiệu lực từ năm 2010 và hệ thống văn bản hƣớng dẫn thực hiện
đƣợc ban hành nhanh chóng, bao quát các lĩnh vực, chế độ, chính sách liên quan đến ngƣời
cao tuổi. Điều này cho thấy, đây là một bƣớc đi nhanh chóng và phù hợp của Việt Nam đáp
ứng với xu hƣớng già hóa dân số đã, đang diễn ra, khẳng định cam kết của hệ thống chính trị
trong việc đảm bảo quyền lợi và cuộc sống của ngƣời cao tuổi. Tuy nhiên, trong bối cảnh
thay đổi nhanh chóng, các rủi ro về sức khỏe ngày càng lớn, xu hƣớng bệnh tật thay đổi và
nhu cầu chăm sóc ngày càng cao thì các chính sách hiện có đòi hỏi điều chỉnh kịp thời, đặc
biệt là các chính sách bảo trợ xã hội, bảo hiểm y tế cho các đối tƣợng yếu thế nhƣ nghèo
hoặc tàn tật.
Vấn đề về ngƣời cao tuổi chƣa đƣợc gia đình và xã hội quan tâm sâu sắc. Không gian
sống trong gia đình và không gian sinh hoạt xã hội chƣa đƣợc thân thiện với ngƣời cao tuổi.
Thiếu nhiều thiết bị chuyên dùng cho Ngƣời cao tuổi, chƣa hình thành một thị trƣờng về
thiết bị chuyên dùng. Thực tế đối với những ngƣời cao tuổi thuộc diện chính sách hiện đang
hƣởng trợ cấp xã hội thì để họ sống đƣợc với mức trợ cấp này cũng là một bài toán nan giải
trong bối cảnh mức sống hiện nay của Thành phố Hồ Chí Minh, những ngƣời này vẫn tiếp
tục đƣợc hỗ trợ từ ngƣời thân, gia đình và cộng đồng xã hội mới có thể duy trì cuộc sống bên
cạnh vai trò đảm bảo an sinh xã hội của Nhà nƣớc.
Việc phát triển mở rộng mạng lƣới với các hình thức và loại hình cơ sở chăm sóc ngƣời
cao tuổi đã đƣợc xác định là cần thiết. Tuy nhiên, từ “định hƣớng” đến “thực tế” vẫn còn
những khoảng cách nhất định khi có lúc, có nơi còn chƣa thật sự nhận thức đầy đủ những
thách thức của vấn đề già hóa dân số và việc chăm sóc cho ngƣời cao tuổi. Mục tiêu về một
thành phố có mạng lƣới cơ sở chăm sóc ngƣời cao tuổi chất lƣợng, chuyên nghiệp còn khá
xa; hoặc nếu có thì chƣa mang tính ổn định, bền vững. Vì vậy, nhất thiết cần có một mô hình
chăm sóc Ngƣời cao tuổi mang tính hỗn hợp, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.
Do bị tác động bởi các yếu tố đạo lý, thách thức về mức thu nhập, bất cập của hệ thống
chăm sóc ngƣời cao tuổi tại các trung tâm, cơ sở hiện có, việc chuyển đổi nhận thức và hành
vi chăm sóc ngƣời cao tuổi tại các cơ sở sẽ diễn ra nhƣng không phải trong 5 năm sắp tới.
Trong giai đoạn hiện nay, các cơ sở chăm sóc phúc lợi của Nhà nƣớc với mức chi phí thấp
hoặc các tổ chức thiện nguyện vẫn đóng vai trò vô cùng to lớn, cùng với nhà Nƣớc đảm
đƣơng vai trò trợ giúp cho những ngƣời cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn. Những Ngƣời cao
tuổi vẫn còn gia đình thì gia đình là phƣơng án lựa chọn tốt nhất, chăm sóc tại nhà; vừa giúp
họ hài hòa tình cảm gia đình với việc đảm bảo chất lƣợng chăm sóc tốt nhất về mặt tinh
thần, tình cảm cho Ngƣời cao tuổi và tạo điều kiện thúc đẩy thị trƣờng các dịch vụ chăm sóc
Ngƣời cao tuổi phát triển trợ việc chăm sóc tại nhà.
3. Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng chăm sóc Ngƣời cao tuổi
Vấn đề chăm sóc Ngƣời cao tuổi trở nên bức thiết trong bối cảnh tiến trình lão hoá dân số
Việt Nam tiến triển nhanh và đặc biệt số lƣợng Ngƣời cao tuổi ở TP HCM nhiều. Mức sinh
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
126
thấp, tuổi thọ cao càng góp phần tăng nhanh số lƣợng Ngƣời cao tuổi. Trong tƣơng lai rất
gần, vấn đề chăm sóc Ngƣời cao tuổi trở thành một vấn đề xã hội, không còn chỉ là vấn đề
gia đình và nhu cầu ngày càng trở nên bức xúc. Qua nghiên cứu khảo sát và phân tích cho
thấy mô hình chăm sóc sức khỏe ngƣời cao tuổi tại gia đình và dựa vào cộng đồng đã mang
lại những hiệu quả thiết thực, góp phần tích cực trong việc cải thiện sức khỏe thể chất, tinh
thần cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng cuộc sống và phát huy vai trò của ngƣời cao tuổi. Đây
vẫn là loại hình chủ đạo trong thời gian tới.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phƣơng có mức sống cao, sẽ có nhiều
Ngƣời cao tuổi và gia đình Ngƣời cao tuổi có nhu cầu đƣợc cung cấp các dịch vụ chăm sóc
tốt nhất. Đây là cơ hội cho các trung tâm chăm sóc Ngƣời cao tuổi tƣ nhân và viện dƣỡng
lão của Nhà nƣớc có thu phí phát triển dịch vụ chăm sóc. Đến năm 2025 - 2030, số Ngƣời
cao tuổi có thể lên đến 700.000-800.000 ngƣời trong tổng số 15.000.000 dân thành phố
(chiếm khoảng 5% dân số thành phố) và số Ngƣời cao tuổi trên 70 tuổi (cần đƣợc chăm sóc)
ngày càng nhiều hơn. Giả định số Ngƣời cao tuổi có thể tự mình chăm sóc là 70% thì số
Ngƣời cao tuổi cần đƣợc chăm sóc sẽ chiếm khoảng từ 200.000 - 300.000 ngƣời. Nếu đặt
một mục tiêu hết sức khiêm tốn là 10% số này có thể vào nhà dƣỡng lão, thì nhu cầu nhà
dƣỡng lão càng bức xúc, cần có những giải pháp tích cực, đột phá.
Mục tiêu cơ bản của các giải pháp chăm sóc Ngƣời cao tuổi là làm sao tăng số lƣợng
ngƣời cao tuổi có sức khoẻ tốt, tự mình phục vụ tốt và giảm dần số ngƣời cao tuổi cần đƣợc
chăm sóc, neo đơn, khó khăn. Tự bản thân ngƣời cao tuổi cần thiết phải đƣợc trang bị kiến
thức và nỗ lực phòng chống sự suy giảm chức năng, tự lập tối đa. Xác định trách nhiệm
chăm sóc Ngƣời cao tuổi là của toàn xã hội, phải đảm bảo các điều kiện sống, vật chất và
tinh thần cho ngƣời cao tuổi, để nâng cao chất lƣợng cuộc sống của ngƣời cao tuổi. Xác định
hành động của ngƣời lao động đang thực hiện hành vi chăm sóc sức khỏe cho ngƣời cao tuổi
là một nghề mang tính xã hội đặc biệt, với những quy định ràng buộc về trách nhiệm và
lƣơng tâm. Công tác chăm sóc cần phải tƣơng ứng với từng nhóm tình trạng sức khỏe của
ngƣời cao tuổi.
3.1. Thống kê, nắm chắc tình hình Ngƣời cao tuổi
Giải pháp đầu tiên là tổ chức thống kê Ngƣời cao tuổi theo các nhóm, hàng năm có cập
nhật và do Hội Ngƣời cao tuổi phối hợp với Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM thực hiện
với kinh phí từ ngân sách thành phố. Xây dựng đề án “Bản đồ Ngƣời cao tuổi tại TPHCM”,
bộ dữ liệu về ngƣời cao tuổi, ứng dụng tối đa công nghệ thông tin, nhằm cung cấp những
hƣớng dẫn thực tế và chi tiết nhất cho mỗi gia đình tại TPHCM có thể chăm sóc Ngƣời cao
tuổi của mình tốt nhất. Và qua đó, UBND thành phố cũng nhƣ các ngành liên quan, với đầy
đủ thông tin về các nhóm Ngƣời cao tuổi và các hệ thống xã hội cơ bản, có thể điều phối,
điều chỉnh chính sách, phân bố nguồn lực hợp lý hơn để các nhóm Ngƣời cao tuổi đƣợc thụ
hƣởng cuộc sống của họ theo mức tốt nhất. Có thể kết hợp với quản lý dữ liệu dân cƣ của
ngành công an.
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
127
3.2. Đảm bảo chất lƣợng cuộc sống cơ bản
Đảm bảo mức sống tối thiểu cho ngƣời cao tuổi và gia đình họ để ngƣời cao tuổi có thể
tiếp tục sống và sống có ích; khuyến khích các tổ chức, cá nhân có những chƣơng trình hoạt
động nhằm chăm sóc ngƣời cao tuổi đặc biệt là ngƣời cao tuổi cô đơn; xây dựng các hình
thức tổ chức nhằm khuyến khích ngƣời cao tuổi dành dụm, tiết kiệm tiền cho tuổi già.
Về kinh tế và chăm lo đời sống vật chất, phát huy vai trò Hội Ngƣời cao tuổi: Khuyến
khích hội viên tổ chức kinh doanh, sản xuất, dịch vụ, hợp tác kinh tế. Ngƣời cao tuổi giúp
gia đình con cháu, hƣớng dẫn kế hoạch làm ăn, vay vốn xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính
đáng, ngăn ngừa thua lỗ và hoạt động phi pháp. Hội tổ chức xây dựng “Quỹ toàn dân chăm
sóc ngƣời cao tuổi” và “Phụng dƣỡng ông bà cha mẹ” về mặt vật chất và tinh thần cho ngƣời
cao tuổi. Tổ chức mừng thọ cho các cụ cao tuổi và tặng quà cho các cụ, tổ chức cho các cụ
đi tham quan.
Tạo điều kiện thuận lợi để ngƣời cao tuổi tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể dục,
thể thao và tham gia vào các tổ chức xã hội, các hoạt động thiết thực; nghiên cứu phát triển
các loại hình văn hóa, thể dục thể thao phù hợp với nội dung sinh hoạt và tâm lý với thể lực,
đặc điểm sức khỏe của ngƣời cao tuổi; kịp thời thông tin những vấn đề liên quan đến ngƣời
cao tuổi để nắm và chia sẻ, tham gia, nhất là trách nhiệm, gƣơng mẫu xây dựng đời sống văn
hóa ở địa bàn dân cƣ
Tạo mọi điều kiện về vật chất, và tinh thần để tổ chức hội các cấp từ thành phố đến cơ sở
hoạt động đảm bảo số lƣợng và chất lƣợ