Chi tiết và ứng dụng các màu (phần 1)

Màu hổ phách là màu vàng ánh da cam, có tên gọi từ một loại vật liệu là hổ phách (một loại nhựa cây lâu năm hóa thạch dùng làm đồ trang sức. Mặc dù nó không phải là khoáng chất, nhưng nó có thể được sử dụng như đá quý.)

pdf26 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1877 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chi tiết và ứng dụng các màu (phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chi tiết và Ứng dụng các màu (phần 1) Màu hổ phách Màu hổ phách là màu vàng ánh da cam, có tên gọi từ một loại vật liệu là hổ phách (một loại nhựa cây lâu năm hóa thạch dùng làm đồ trang sức. Mặc dù nó không phải là khoáng chất, nhưng nó có thể được sử dụng như đá quý.) Màu ametit Màu ametit là một màu tím vừa phải, trong suốt. Tên gọi của nó có nguồn gốc từ ngọc (đá) ametit, một thù hình của thạch anh. Mặc dù màu của ngọc ametit tự nhiên dao động từ màu tía đến màu vàng, màu ametit được nói đến ở đây như là màu tía vừa phải, nói chung được nhiều người cho là màu của các loại ngọc ametit. Nguồn gốc màu tía của ngọc ametit là đề tài của nhiều tranh cãi. Một số người cho rằng có màu này là do sự hiện diện của mangan, trong khi những người khác cho rằng màu ametit là do thioxyanat sắt hay lưu huỳnh tìm thấy trong ngọc ametit. Màu xanh berin Màu xanh berin là màu nằm giữa màu xanh lá cây và màu xanh lam. Đây là màu được coi là một trong những màu phổ biến nhất của khoáng chất berin có thể sử dụng trong công nghiệp đá quý (Be3Al2(SiO3)6), rất gần với ngọc lục bảo. Màu xanh da trời Màu xanh da trời là màu nằm giữa màu xanh lam và màu xanh lơ, được coi là màu của bầu trời trong những ngày nắng đẹp. Bước sóng 450-485 nm Đây là một trong các màu biểu tượng cho nước Ý. Ở Pháp, nó được coi là màu nước của Địa Trung Hải. Màu be Màu be là màu xám ánh vàng nhạt. Thuật ngữ màu be có nguồn gốc từ màu của vải be (là một loại vải len trong màu sắc tự nhiên của nó). Tên gọi màu này thường được sử dụng (có thể không chuẩn) để chỉ những màu nâu rất nhạt. Từ đó nó được sử dụng để chỉ một dãy màu tạo ra cảm giác mát mẻ hay ôn hòa của chúng đối với con người Màu be được coi là màu của sự ôn hòa hay buồn tẻ. Nó hay được sử dụng để tạo màu cho vỏ máy tính cá nhân. Màu nâu sẫm Màu nâu sẫm là màu của chất màu thông thường được tìm thấy ở nhọ nồi hay bồ hóng. Đôi khi người ta không thể phân biệt được màu này với màu đen. Nhọ nồi hay bồ hóng đôi khi được sử dụng như một loại mực để vẽ Màu đen Màu đen là một màu với những sự sai khác tinh tế trong ý nghĩa. Khi nhìn vào hình bên, nhiều người sẽ có cảm giác về màu này. là một màu với những sự sai khác tinh tế trong ý nghĩa. Khi nhìn vào hình bên, nhiều người sẽ có cảm giác về màu này. Màu đen có thể được định nghĩa như ấn tượng thị giác khi người ta ở trong khu vực hoàn toàn không có ánh sáng. (Điều này ngược lại với màu trắng, là ấn tượng thị giác khi tổ hợp các màu của ánh sáng kích thích đều cả ba loại tế bào cảm quang.) Các loại vật chất hấp thụ hết ánh sáng thì tạo ra cảm giác cho con người là có màu đen (thực tế thì không có loại vật chất nào hiện biết là có khả năng như vậy, nhưng các vật chất gần như vậy thì rất nhiều). Các chất màu đen có thể là do tổ hợp của một vài loại chất màu khác (không nhất thiết phải có màu đen) có khả năng hấp thụ gần như hết mọi thành phần của ánh sáng. Nếu trộn cả ba chất màu gốc cơ bản trong một lượng phù hợp, thì kết quả là nó phản xạ rất ít ánh sáng, vì thế nó cũng được gọi là “đen”. Điều này dẫn đến hai sự mô tả trái ngược nhau đáng kể nhưng thực tế là bổ sung cho nhau về khái niệm màu đen. Đó là: - Màu đen là sự vắng mặt của các thành phần tạo ra ánh sáng. - hay tổ hợp đầy đủ của các màu khác nhau của các chất màu ứng dụng: - Đối với con người, thuật ngữ “đen” đôi khi còn được sử dụng để chỉ những người có nước da từ sắc nhạt đến sắc sẫm của màu nâu, đặc biệt là người có nguồn gốc châu Phi. - Mực đen là loại mực phổ biến trong ngành công nghiệp in ấn cũng như trong các văn phòng. - Trong văn hóa phương Đông cổ đại, như trong Ngũ hành thì màu đen là màu của nguyên tố Thủy, đại diện cho phương bắc hay nước (H2O). - Mực Tàu có thể coi là có màu đen, được sử dụng trong viết lách thời phong kiến ở Trung Quốc, Việt Nam v.v - Trong văn hóa phương Tây, màu đen là màu của tang lễ hoặc mang ý nghĩa tiêu cực, phi pháp hay tối nghĩa, bí mật, không rõ ràng. - Ở bộ lạc Maasai của Kenya và Tanzania, màu đen liên tưởng tới các đám mây, là biểu tượng của sự sống và thịnh vượng. - Gương đen được sử dụng trong thiên văn. - Thuật ngữ lỗ đen, hay hố đen, trong thiên văn học để chỉ tới các ngôi sao đã tắt có khối lượng rất lớn để không cho bất kỳ cái gì (như ánh sáng) có thể thoát ra khỏi nó. - Trong tài chính-kế toán, khi tài khoản không âm thì người ta sử dụng mực đen để ghi, ngược lại với tài khoản có giá trị âm được ghi bằng mực đỏ. -Trong chính trị ở Đức, màu đen được sử dụng trong cách nói thông thường để chỉ các đảng bảo thủ như Đảng Liên minh Dân chủ-Thiên chúa (CDU) và Đảng Liên minh Xã hội-Thiên chúa (CSU) ở bang Bavaria. CDU không có đảng viên ở Bavaria. - Trọng tài môn bóng đá theo truyền thống mặc đồ màu đen, mặc dù hiện nay nguyên tắc này đã thay đổi và các trọng tài có thể mặc đồ màu khác. - Trong môn đua ô tô, cờ đen được sử dụng khi một ô tô nào đó cần trở lại trạm kỹ thuật. - Màu đen là màu của quả bóng trị giá 7 điểm trong môn snooker. - Đội tuyển bóng bầu dục của New Zealand gọi là All Blacks, do đồng phục thi đấu của họ là màu đen. Màu xanh lam Màu xanh lam là một trong ba màu gốc bổ sung. Ánh sáng màu xanh lam có bước sóng ngắn nhất trong ba loại màu gốc bổ sung (khoảng 420 đến 490 nm). Bầu trời trong những ngày nắng đẹp có màu xanh lam do tán xạ Rayleigh của ánh sáng từ Mặt Trời. Một lượng lớn của nước thường (H2O) được cảm nhận là có màu xanh lam vì ánh sáng đỏ (bước sóng khoảng 750 nm) bị hấp thụ do tần số điều hòa bội của dao động co duỗi của liên kết O-H. Nước nặng (D2O) là không màu do dải tần số bị hấp thụ (~950 nm) là nằm ngoài quang phổ. Một mẫu của màu xanh lam trong không gian màu RGB có cường độ [0, 0, 255] trong thang độ 0-255. Màu xanh lam là màu bù của màu vàng. Vì lý do này, các kính lọc xanh 80A được sử dụng để chỉnh sửa màu đỏ dư thừa trong ánh sáng của đèn vonfram trong công nghệ chụp ảnh màu. Màu nâu Màu nâu là màu tạo ra bởi việc trộn một lượng nhỏ chất màu có màu đỏ và màu xanh lá cây, màu da cam và màu xanh lam, hay màu vàng và màu tía. Màu nâu tạo ra cảm giác màu khi có sự tương phản màu sắc cao. Trong tiếng Việt, tên gọi của nó có nguồn gốc từ tự nhiên do màu này rất gần với màu của chất chứa tanin chiết ra từ củ nâu, dùng để nhuộm quần áo. Ứng dụng: - Màu nâu là màu của một số loại đất phù sa. - Màu nâu là màu của quả bóng môn snooker có giá trị 4 điểm. - Ở Việt Nam, màu nâu là màu được coi là tượng trưng cho sự giản dị, quê mùa. - Màu này là màu của trang phục của nông dân Việt Nam thời phong kiến. - Là màu của trang phục của các vị tiểu, tăng trong hệ thống Phật giáo Việt Nam. Màu cam cháy Màu cam cháy là một biến thể của màu da cam, được sử dụng như một màu chính thức của trường Đại học tổng hợp Texas tại Austin Màu hồng y Màu hồng y là màu từ ánh đỏ tới hồng, nó có tên như vậy là do màu của áo choàng của các hồng y của Kitô giáo thường mặc. Nó cũng là màu “chính thức” của trường Đại học Stanford. CaoInteractive - Sưu tầm ShareThis Link Summary      Chi tiết và Ứng dụng các màu (phần 2) Màu đỏ yên chi Màu đỏ yên chi là chất màu có màu đỏ sáng thu được từ rệp son (Dactylopius coccus), và nó là thuật ngữ chung cho các màu sắc đỏ thẫm cụ thể nào đó. Nó có thể được chế ra bằng cách cô đặc (sắc) rệp son với nước sôi và sau đó xử lý dung dịch trong suốt với phèn chua, kem tartar (muối tartarat kali, KHC4H4O6), clorua thiếc II, hay ôxalat kali; các chất màu có trong chất lỏng sẽ kết tủa.Các phương pháp khác cũng được sử dụng; đôi khi lòng trắng trứng, bột nhão cá, hay giêlatin được bổ sung trước khi cho kết tủa. Chất lượng của chất màu yên chi bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và độ chiếu sáng trong quá trình kết tủa, ánh sáng mặt trời là cần thiết để sản xuất bột màu có sắc màu chói. Nó cũng khác nhau về màu theo tỷ lệ ôxít nhôm trong đó. Nó đôi khi được pha trộn với chất màu đỏ son, hồ và các chất liệu khác; từ những hỗn hợp này chất màu đỏ yên chi có thể được tách ra bằng cách hòa tan nó trong amôniắc. Chất liệu màu yên chi tốt có thể dễ dàng bóp vụn bằng các ngón tay khi khô. Màu men gốm Màu men gốm (tính từ): nói về tông màu của một sản phẩm hoặc một dòng gốm. Màu men gốm (danh từ): chỉ những sản phẩm mang sắc men có tính phân biệt hoặc tính đặc trưng. Thí dụ: Khi nói đến men ngọc, màu men celadon, men celadon, celadon hoặc dòng gốm cổ Trung Hoa là ta hiểu ngay đó là sản phẩm tráng men có màu xanh lục-xanh nước biển nhạt (thực tế thường biến đổi từ lục xám nhẹ đến lục ngả vàng). Nó có tên gọi như vậy do người ta tìm thấy màu này chủ yếu trong nước men của đồ gốm có xuất xứ từ Trung Quốc. Về mặt kỹ thuật, màu này được tạo thành bằng cách nung sản phẩm đã tráng men có chứa FeO, Cr2O3, NiO, SnO2 và TiO2 với hàm lượng thích hợp trong môi trường khử. Màu anh đào Màu anh đào là màu đỏ ánh tía, dao động từ thẫm đến chói. Nó có tên gọi này là do có màu giống như màu của quả anh đào chín. Màu xanh nõn chuối Màu xanh nõn chuối chứa nhiều phần xanh lục pha chút vàng. Nó có tên như vậy vì giống phần lá non của cây chuối. Nó giống màu vàng chanh nhưng có nhiều sắc xanh lục hơn màu vàng chanh. Màu cô ban Màu cô ban là một màu xanh lam chưa bão hòa, tạo cảm giác lạnh, các chất liệu có màu như thế này chủ yếu tìm thấy trong các muối của cô ban. Màu xanh nhìn thấy trên phần lớn các loại kính, thủy tinh là màu cô ban. Màu đồng Màu đồng là màu nâu ánh đỏ, giống như màu của đồngkim loại. Màu san hô Màu san hô là màu da cam ánh hồng, lấy theo màu sắc của các lớp san hô Màu kem Màu kem là màu của kem tức váng sữa sản xuất từ gia súc chăn thả tự nhiên trên đồng cỏ giàu các chất carôten màu vàng, một số các chất này kết hợp với nhau tạo thành kem, có màu từ vàng nhạt tới trắng Màu đỏ thắm Màu đỏ thắm là màu sắc đa số người cảm nhận khi nhìn vào hình bên. Màu này đỏ sẫm có ánh xanh rất nhẹ. Thông thường, nó có thể coi là màu của máu. Ứng dụng trong in ấn, phối màu: Màu đỏ Alizarin là chất màu được tổng hợp lần đầu tiên năm 1868 bởi các nhà hóa học người ĐứcCarl Gräbe và Carl Lieberman và thay thế cho các chất màu tự nhiên chiết từ rễ cây thiên thảo (một cây loại Rubia họ Rubiaceae). Màu đỏ Alizarin là một thuốc nhuộm được lấy ra từ rễ cây này bằng phèn chua. Nói chung nó không phải là một chất bền màu, khi trộn với bột son (ochre), bột màu sienna và bột màu umber. Màu đỏ thắm, hay đỏ thẫm (carmine) đôi khi được sử dụng để chỉ thuốc nhuộm sản xuất từ xác khô của bọ yên chi cái (cochineal) mặc dù thông thường người ta vẫn gọi nó là chất màu “yên chi” từ tên của loài bọ này. Nó có lẽ được phát hiện ra trong cuộc viễn chinh của người Tây Ban Nha tới Mexico là ông Hernán Cortés và được đem về châu Âu trong những năm đầu của thập niên 1500. Màu đỏ thẫm này lần đầu tiên được Mathioli mô tả năm 1549. Chất màu đỏ thẫm có thể là hỗn hợp muốinhôm và canxi của axít carminic và màu carmine là màu chứa nhôm hay nhôm-thiếc của dịch chiết từ bọ yên chi, trong khi dịch màu đỏ thắm được sản xuất bằng cách trộn chất chiết của bọ yên chi với dung dịch 5 phần trămphèn chua và kem tartar (muối kali của axít tartaric KHC4H4O6). Màu tía được sản xuất tương tự màu đỏ thẫm với sự bổ sung thêm của vôi sống để sản xuất màu tía thẫm. Thuốc nhuộm màu đỏ thẫm (carmine) có xu hướng bay màu nhanh. Thuốc nhuộm này đã từng được đánh giá cao ở cả châu Mỹ và châu Âu. Nó được sử dụng trong các tranh của Michelangelo và trên vải áo của kỵ binh Hungary, người Thổ Nhĩ Kỳ, áo choàng đỏ của Vương quốc Anh và Cảnh sát Hoàng gia Canada. Ngày nay thuốc nhuộm màu đỏ thẫm carmine được sử dụng trong nhuộm màu thực phẩm, y tế và mĩ phẩm cũng như trong một số sơn dầu và màu nước được các họa sĩ sử dụng. - Màu đỏ thắm (crimson) là trường phái màu của Đại học Harvard, và báo chí hàng ngày của Harvard được gọi là The Harvard Crimson. Các đội điền kinh của trường này cũng được gọi là Crimson. CaoInteractive - Sưu tầm ShareThis Link Summary         %A9ng&action=edit  ction=edit     tion=edit   s%E1%BA%AFc_men&action=edit    %83n&action=edit                  %BB%91%29&action=edit     B%91%29                   t    =edit  =edit                  B3&action=edit   ng_gia_Canada&action=edit    on=edit  arvard&action=edit Chi tiết và Ứng dụng các màu (phần 3) Mực màu xanh lơ Mực màu xanh lơ là một trong các loại mực phổ biến sử dụng trong công nghệ in màu, cùng với mực màu hồng sẫm, vàng và đen; một bộ gồm bốn màu này được gọi là CMYK. Lưu ý rằng tuy gọi là mực xanh lơ nhưng mực xanh lơ và ánh sáng màu xanh lơ tạo ra cảm giác màu khác nhau. Mực màu xanh lơ tạo ra cảm giác màu ít chói hơn, thực tế công nghệ in CMYK không thể tái tạo chính xác màu xanh lơ thuần khiết (100% xanh lam + 100% xanh lá cây) trên giấy. Màu xanh lơ Màu xanh lơ (còn gọi là màu hồ thủy) là một màu cơ bản trong quang phổ, nhưng một vài biến thể về sắc thái có thể tạo ra bằng cách trộn các lượng bằng nhau của ánh sáng màu xanh lá cây và màu xanh lam. Vì vậy, màu xanh lơ là màu bù của màu đỏ: các chất màu xanh lơ hấp thụ ánh sáng đỏ. Màu này đôi khi còn gọi là màu xanh Thổ (tuy rằng không đúng) và nó rất khó phân biệt dưới ánh sáng màu xanh lam. Màu lục bảo Màu lục bảo là một sắc thái của màu xanh lá cây (màu lục) với đặc thù là nhạt và sáng hơn, và thiên hướng xanh lam rất mờ. Nó có tên gọi như vậy là do rất gần với màu của ngọc lục bảo. Ireland thường được gọi là “Hòn đảo Lục bảo” (the Emerald Isle) vì tại đó mưa quá nhiều nên cây cối luôn xanh. Màu vàng kim loại Màu vàng kim loại hay màu vàng kim là một sắc thái của màu “vàng” rất gần với màu của kim loại vàng. Cảm giác về màu vàng kim này có liên quan đến vàng kim loại vì ánh kim của nó. Nó không thể tái tạo bằng một màu thuần nhất vì hiệu ứng ánh kim có quan hệ với độ sáng của vật liệu là cái dao động theo các góc của người quan sát cũng như của nguồn sáng. Điều này có nghĩa là tại sao trong nghệ thuật người ta thông thường sử dụng sơn kim loại (sơn nhũ) trông lấp lánh như vàng thật, nhưng màu thuần nhất như trong hình thuộc trang này thì lại không thể xem như là màu vàng kim. Đặc biệt trong trong các nhà thờ Kitô giáo hay đền chùa của đạo Phật các lá vàng thật được sử dụng để thể hiện màu vàng kim trong nghệ thuật sơn, thiếp vàng. Ví dụ như các vầng hào quang của các vị thánh hay thiên thần. Tuy nhiên trong nghệ thuật sơn gần đây, ví dụ trong phái Art Nouveau người ta sử dụng sơn có màu vàng ánh kim là từ bột nhôm và chất sơn tạo màu vàng chứ không phải vàng kim loại thật. Màu xám Màu xám là màu thông thường được nhìn thấy trong tự nhiên. Nó được tạo ra bằng cách trộn màu trắng và màu đen trong các tỷ lệ khác nhau. Phụ thuộc vào nguồn sáng, mắt người có thể cảm nhận màu sắc của một vật hoặc là màu xám hay màu khác. Hai màu được gọi là các màu bù nếu màu xám được tạo ra khi ánh sáng của hai màu này tổ hợp với nhau. Các màu gốc thuộc tâm lý là: - Đen và Trắng - Xanh lam và Vàng - Đỏ và Xanh lá cây Các tập hợp khác của các màu bù bao gồm: - Màu da cam and màu xanh nước biển - Màu vàng chanh và màu tía Màu xám là tự bù (trong ảo giác quang học thì màu sắc có thể bị chuyển sang màu bù của nó nếu nhìn lâu vào một vật). Ứng dụng: - Màu xám đôi khi tượng trưng cho cuộc sống tẻ nhạt, chán ngắt, không có mục đích hay những người có cuộc sống khắc khổ. - Chất tạo thành não người được nhắc tới như là có màu xám và được gọi là “chất xám”, vì thế nó còn có nghĩa là những cái gì đó thuộc về trí thức. “Lý thuyết chỉ là màu xám…” - Ở châu Âu và châu Mỹ, màu xám làm người ta liên tưởng tới mùa thu, thời tiết xấu và nỗi buồn. - Màu xám được sử dụng để mô tả chủ nghĩa công nghiệp, ngược lại với màu xanh lá cây để mô tả chủ nghĩa môi trường. - Tóc trở thành có màu xám khi người ta đứng tuổi, vì thế màu xám liên tưởng tới những người cao tuổi, và nó truyền cảm hứng cho việc đặt tên của tổ chức Gray Panthers ở Mỹ. - Màu xám được sử dụng như màu của trang phục cho quân đội Hợp bang (Nam Hoa Kỳ ngày nay) trong Nội chiến Hoa Kỳ, ngược lại với trang phục màu xanh lam của binh lính Liên bang (Bắc Hoa Kỳ ngày nay). Màu xanh lá cây Màu xanh lá cây hay màu (xanh) lục là màu sắc hay gặp trong tự nhiên. Hầu hết các lá cây có màu xanh lục nhờ các chất diệp lục trong nó. Đa số người thấy màu này khi nhìn vào hình bên. Màu xanh lá cây có bước sóng từ 500-565 nm Màu vòi voi Màu vòi voi là màu có sắc từ tím trung bình, nhạt, hay chói tới màu tía ánh đỏ trung bình hay đậm. Ngoài ra nó cũng có thể là màu tía ánh xám Màu chàm Màu chàm là màu của ánh sáng trong khoảng 440 đến 420 nm, nằm giữa màu xanh lam và màu tím. Giống như màu da cam, tên gọi của nó có xuất xứ từ tự nhiên, do màu này rất gần với màu của chất tanin từ vỏ cây chàm dùng để nhuộm quần áo. Nó không phải là màu gốc bổ sung hay loại trừ nhưng trong các sách vật lý vẫn liệt kê nó như màu gốc. Lý do cơ bản là khi Newton chia quang phổ ra làm bảy phần để cho phù hợp với con số bảy hành tinh (khi đó chỉ biết có vậy), bảy ngày trong tuần và bảy nốt nhạc cũng như một số các danh sách khác chỉ có bảy phần tử thì ông đã đặt tên và định nghĩa nó như màu gốc. Mắt con người không nhạy cảm lắm với ánh sáng màu chàm. Một số người không thể phân biệt nó với màu xanh lam hay màu tím. Màu ngọc bích Màu ngọc bích là màu xanh lá cây ánh xanh lam nhạt, bão hòa màu. Tên gọi có xuất xứ từ màu của ngọc bích, mặc dù các loại khoáng chất này có rất nhiều biến thái về màu sắc. Màu kaki Màu kaki có nguồn gốc từ tiếng Urdu. Trong ngôn ngữ này từ khak có nghĩa là bụi hay đất màu. Nó được sử dụng như là màu của các loại trang phục ngụy trang cho quân đội. Đáng kể nhất trong số đó là màu kaki đã được quân đội Anh sử dụng ở Ấn Độ năm 1948. Màu oải hương Màu oải hương, hay màu hoa oải hương, là màu tía rất nhạt. Nó rất gần với màu hoa của cây oải hương (một loại cây họ Lamiaceae giống Lavandula). Màu vàng chanh Màu vàng chanh (hay màu vàng-lục) là tổ hợp của màu vàng và màu xanh lá cây, nó có tên gọi như vậy do màu sắc rất gần với vỏ quả chanh. Nó rất gần với màu xanh nõn chuối, nhưng nó có sắc vàng nhiều hơn xanh nõn chuối. Màu hạt dẻ Màu hạt dẻ là màu hỗn hợp của màu nâu và màu tía. Mặc dầu về quan niệm nó là hỗn hợp màu, nó có thể coi như biến thể sẫm của màu đỏ chưa bão hòa. Màu cẩm quỳ Màu cẩm quỳ (tiếng Anh: mauve, tiếng Pháp: malva, tên gọi chung của cây cẩm quỳ họ Malvaceae giống Malva) là màu hoa cà có ánh hồngxám nhạt, là một trong rất nhiều màu sắc trong dãy màu tía. Nó có ánh xám và xanh lam hơn là ánh của màu hồng sẫm. Màu cẩm quỳ được đặt tên lần đầu tiên năm 1856. Nhà hóa họcWilliam Perkins, khi đó mới 18 tuổi, đã thử điều chế kí ninh nhân tạo để làm thuốc chống sốt rét. Phần còn lại ngoài dự kiến đã vô tình được ông để ý và nó đã trở thành thuốc nhuộm anilin đầu tiên — chính xác là mauvein, đôi khi được gọi là anilin màu tía. Perkins đã rất thành công trong việc giới thiệu phát kiến của mình cho ngành công nghiệp sản xuất thuốc nhuộm, vì thế tiểu sử của ông do Simon Garfield viết được đặt tiêu đề là Mauve, tức "màu cẩm quỳ" (2001). Màu Hoa Cà Màu Hoa Cà còn gọi là màu hoa tử đinh hương, do nó rất gần với màu hoa của hai loại cây này Màu lam sẫm Màu lam sẫm, hay còn gọi là màu xanh hải quân, là biến thái sẫm màu của màu xanh lam. Một số người nhầm màu này với màu đen, đặc biệt khi nó liên quan đến màu quần áo. Nó có tên gọi xanh hải quân do đồng phục của Hải quân Hoàng gia Anh có màu này từ năm 1748 và sau đó được chấp nhận bởi các lực lượng hải quâ