Quan niệm duy vật về lịch sử xuất phát từ luận điểm cho rằng sản xuất và tiếp theo
sau sản xuất là trao đổi sản phẩm của sản xuất, là cơ sở của mọi chế độ xã hội,
rằng trong mỗi xã hội xuất hiện trong lịch sử, sự phân phối sản phẩm, và cùng với
sự phân phối ấy là sự phân chia xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp đều được
quyết định bởi tình hình: người ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra bằng cách nào
và cái đó được trao đổi như thế nào. Do đó, phải tìm những nguyên nhân cuối
cùng của tất cả những biến đổi xã hội và những đảo lộn chính trị không phải trong
đầu óc người ta, không phải ở nhận thức ngày càng tăng thêm của người ta về
chân lý vĩnh cửu và chính nghĩa vĩnh cửu, mà là trong những biến đổi của phương
thức sản xuất và phương thức trao đổi; cần phải tìm những nguyên nhân đó không
phải trong triết học, mà là trong kinh tế của thời đại tương ứng. Nhận thức đã thức
tỉnh cho rằng những thiết chế xã hội hiện có là không hợp lý và bất công, rằng lý
trí trở thành sự phi lý, điều thiện trở thành một sự khổ đau, thì điều đó chỉ là một
triệu chứng nói lên rằng trong những phương pháp sản xuất và trong những hình
thức trao đổi, đã lặng lẽ xảy ra những biến đổi không còn phù hợp với chế độ xã
hội khuôn theo những điều kiện kinh tế trước đây nữa.
20 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chống Duyhring III - Chương 2: Lý luận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chống Duyhring III Chủ nghĩa xã hội
Chương 2: Lý luận
Quan niệm duy vật về lịch sử xuất phát từ luận điểm cho rằng sản xuất và tiếp theo
sau sản xuất là trao đổi sản phẩm của sản xuất, là cơ sở của mọi chế độ xã hội,
rằng trong mỗi xã hội xuất hiện trong lịch sử, sự phân phối sản phẩm, và cùng với
sự phân phối ấy là sự phân chia xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp đều được
quyết định bởi tình hình: người ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra bằng cách nào
và cái đó được trao đổi như thế nào. Do đó, phải tìm những nguyên nhân cuối
cùng của tất cả những biến đổi xã hội và những đảo lộn chính trị không phải trong
đầu óc người ta, không phải ở nhận thức ngày càng tăng thêm của người ta về
chân lý vĩnh cửu và chính nghĩa vĩnh cửu, mà là trong những biến đổi của phương
thức sản xuất và phương thức trao đổi; cần phải tìm những nguyên nhân đó không
phải trong triết học, mà là trong kinh tế của thời đại tương ứng. Nhận thức đã thức
tỉnh cho rằng những thiết chế xã hội hiện có là không hợp lý và bất công, rằng lý
trí trở thành sự phi lý, điều thiện trở thành một sự khổ đau, thì điều đó chỉ là một
triệu chứng nói lên rằng trong những phương pháp sản xuất và trong những hình
thức trao đổi, đã lặng lẽ xảy ra những biến đổi không còn phù hợp với chế độ xã
hội khuôn theo những điều kiện kinh tế trước đây nữa. Điều đó đồng thời cũng nói
lên rằng những phương tiện để gạt bỏ những tai hoạ đã được phát hiện ra cũng
phải có sẵn - dưới một hình thức ít nhiều phát triển - trong bản thân những quan hệ
sản xuất đã biến đổi. Người ta cần không khải phát minh ra những phương tiện ấy
từ đầu óc, mà trái lại cần phải thông qua đầu óc, phát hiện ra chúng ở trong những
sự kiện vật chất hiện có của sản xuất.
Vậy, do đó, tình hình của chủ nghĩa xã hội hiện đại phải như thế nào?
Chế độ xã hội hiện có - điều này giờ đây hình như mọi người đều đã thừa nhận là
do giai cấp thống trị hiện nay, giai cấp tư sản sáng lập ra. Phương thức sản xuất
vốn có của giai cấp tư sản - mà từ thời Mác về sau người ta gọi là phương thức sản
Chống Duyhring III Chủ nghĩa xã hội
xuất tư bản chủ nghĩa - không tương dung được với những đặc quyền địa phương
và đặc quyền đẳng cấp, cũng như với những sợi giây ràng buộc cá nhân đối với
nhau của chế độ phong kiến; giai cấp tư sản đã đập tan chế độ phong kiến và trên
cảnh điêu tàn của chế độ đó, dựng lên chế độ xã hội tư sản, tức là vương quốc của
tự do cạnh tranh, của tự do đi lại, của quyền bình đẳng giữa những người có hàng
hoá, nói tóm lại của tất cả những cái mỹ miều của giai cấp tư sản. Phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa giờ đây đã có thể phát triển một cách tự do. Từ khi hơi nước
và những máy công cụ mới biến công trường thủ công cũ thành đại công nghiệp
thì những lực lượng sản xuất được tạo ra dưới sự điều khiển của giai cấp tư sản đã
phát triển nhanh chưa từng thấy và với một quy mô chưa từng có. Nhưng giống
như công trường thủ công trước đây và ngành thủ công phát triển hơn nữa do ảnh
hưởng của nó đã xung đột với những xiềng xích phong kiến của phường hội, đại
công nghiệp trong giai đoạn phát triển đầy đủ hơn của nó cũng xung đột với những
giới hạn chật hẹp trong đó phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang giam hãm
nó. Các lực lượng sản xuất mới đã vượt quá hình thức tư sản của việc sử dụng
chúng; và sự xung đột ấy giữa các lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất
không phải là một sự xung đột sinh ra từ đầu óc người ta như sự xung đột giữa tội
tổ tông của con người và sự công bằng của chúa, mà là có thật, khách quan, ở bên
ngoài chúng ta, độc lập đối với ý muốn hay hành động của chính ngay những
người đã gây ra nó. Chủ nghĩa xã hội hiện đại chẳng qua chỉ là sự phản ánh của sự
xung đột có thật ấy vào trong tư tưởng, là sự phản ánh trên ý niệm của sự xung đột
ấy, trước hết vào đầu óc của giai cấp trực tiếp chịu đau khổ vì sự xung đột ấy, tức
là giai cấp công nhân.
Vậy thì sự xung đột ấy là ở chỗ nào?
Trước nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là trong thời trung cổ, khắp nơi đều có
nền sản xuất nhỏ, dựa trên cơ sở quyền tư hữu của những người lao động đối với
những tư liệu sản xuất của họ: nông nghiệp của những tiểu nông, tự do hay nông
Chống Duyhring III Chủ nghĩa xã hội
nô, thủ công nghiệp ở thành thị. Những tư liệu lao động - đất đai, nông cụ, dụng cụ
thủ công - là những tư liệu lao động của cá nhân, chỉ nhằm cho việc sử dụng của
cá nhân, do đó chúng nhất định phải nhỏ bé, tí hon, có hạn. Cũng chính vì thế mà
thường thường chúng thuộc về bản thân người sản xuất. Tập trung, mở rộng những
tư liệu sản xuất phân tán, nhỏ bé ấy, biến chúng thành những đòn bẩy hoạt động
một cách mạnh mẽ của nền sản xuất hiện nay, đó chính là vai trò lịch sử của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của kẻ đại biểu cho nó - tức là giai cấp
tư sản. Giai cấp tư sản đã hoàn thành sự nghiệp ấy trong lịch sử như thế nào từ thế
kỷ XV, qua ba giai đoan khác nhau: hiệp tác đơn giản, công trường thủ công và
đại công nghiệp, điều đó Mác đã mô tả tỉ mỉ trong phần thứ tư của bộ "Tư bản".
Nhưng giai cấp tư sản, như Mác đã chứng minh cũng trong phần ấy, không thể
biến những tư liệu sản xuất có hạn ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh
mà lại không biến chúng từ chỗ là những tư liệu sản xuất do cá nhân sử dụng
thành những tư liệu sản xuất xã hội, chỉ có thể sử dụng được bởi một số đông
người. Thay cho guồng quay sợi, khung cửi dệt tay, búa thợ rèn là máy xe sợi,
máy dệt, búa chạy bằng hơi nước; thay cho xưởng thợ cá thể công xưởng đòi hỏi
lao động chung của hàng trăm, hàng nghìn công nhân. Cũng như tư liệu sản xuất,
bản thân sự sản xuất cũng biến đổi từ chỗ là một loạt động tác cá nhân thành một
loạt động tác xã hội và sản phẩm cũng từ sản phẩm cá nhân biến thành sản phẩm
xã hội. Sợi, vải, hàng kim loại hiện nay do các công xưởng sản xuất ra, đều là sản
phẩm chung của nhiều công nhân, tức là những sản phẩm phải tuần tự qua tay của
họ thì mới hoàn thành. Về những sản phẩm ấy, không một cá nhân nào có thể nói
được rằng: Cái này là do tôi làm ra, đó là sản phẩm của tôi.
Nhưng ở nơi nào mà sự phân công lao động tự phát trong xã hội là hình thức cơ
bản của sản xuất, thì ở đó sự phân công lao động ấy làm cho các sản phẩm mang
hình thức những hàng hoá mà việc đem trao đổi chúng lẫn cho nhau, tức là việc
mua và bán sẽ khiến cho những người sản xuất cá thể có thể thoả mãn được những
nhu cầu nhiều vẻ của mình. Trong thời trung cổ, tình hình là như thế. Ví dụ, người
Chống Duyhring III Chủ nghĩa xã hội
nông dân bán nông phẩm cho người thợ thủ công và mua của người này những sản
phẩm thủ công nghiệp. Bây giờ một phương thức sản xuất mới đã thâm nhập vào
trong xã hội những người sản xuất cá thể, những người sản xuất hàng hoá ấy.
Trong sự phân công lao động tự phát, không có kế hoạch, đang thống trị trong
toàn xã hội, phương thức sản xuất ấy đã xác lập sự phân công lao động tự phát,
không có kế hoạch, đang thống trị trong toàn xã hội, phương thức sản xuất ấy đã
xác lập sự phân công lao động có kế hoạch, được tổ chức trong mỗi công xưởng
riêng biệt; bên cạnh nền sản xuất cá thể đã xuất hiện nền sản xuất xã hội. Sản
phẩm của hai nền sản xuất ấy đều được bán trên cùng một thị trường, do đó được
bán với giá ít ra cũng xấp xỉ bằng nhau. Nhưng tổ chức có kế hoạch thì mạnh hơn
sự phân công lao động tự phát; các công xưởng sử dụng lao động xã hội sản xuất
ra những sản phẩm rẻ hơn sản phẩm của những người sản xuất nhỏ riêng lẻ. Sản
xuất cá thể bị thất bại trong hết lĩnh vực này đến lĩnh vực khác, sản xuất xã hội đã
cách mạng hoá toàn bộ phương thức sản xuất cũ. Nhưng tính chất cách mạng ấy
của sản xuất xã hội ít được hiểu đến nỗi, trái lại, nó đã được áp dụng để nâng cao
và thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất xã hội đã xuất hiện gắn liền trực tiếp
với một số những đòn bẩy nhất định, đã có từ trước, của sản xuất hàng hoá và trao
đổi hàng hoá: tư bản thương nhân, thủ công nghiệp và lao động làm thuê. Vì bản
thân nó xuất hiện như là một hình thức mới của sản xuất hàng hoá cũng vẫn hoàn
toàn có hiệu lực đối với nó.
Trong nền sản xuất hàng hoá đã phát triển trong thời trung cổ, vấn đề sản phẩm
của lao động phải thuộc về ai, thậm chí cũng không đặt ra. Thông thường thì
người sản xuất cá thể làm ra sản phẩm từ những nguyên liệu của họ, thường là do
họ sản xuất ra, bằng những tư liệu lao động của họ và bằng lao động thủ công của
họ hay của gia đình họ. Người đó hoàn toàn không cần trước hết phải chiếm hữu
sản phẩm đó: tự nó sản phẩm đó cũng thuộc về người ấy rồi. Do đó, quyền sở hữu
sản phẩm là dựa trên lao động của bản thân. Ngay ở những nơi người ta nhờ đến
sự giúp đỡ của người khác thì sự giúp đỡ ấy thường thường cũng vẫn chỉ là thứ
Chống Duyhring III Chủ nghĩa xã hội
yếu và ngoài tiền công ra còn thường được đền bù bằng những cái khác: thợ học
việc hay thợ bạn trong phường hội lao động để kiếm sống và nhận tiền công thì ít
hơn là để học nghề nhằm đạt tới danh hiệu thợ cả. Nhưng tiếp đó là việc tập trung
tư liệu sản xuất vào những xưởng thợ lớn và công trường thủ công lớn, việc biến
chúng thành những tư liệu sản xuất trên thực tế là có tính chất xã hội. Nhưng các
tư liệu sản xuất và sản phẩm xã hội vẫn được coi như thể là chúng vẫn là những tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động của cá nhân như trước. Nếu như từ trước tới
nay, kẻ sở hữu tư liệu lao động chiếm hữu sản phẩm vì những sản phẩm ấy thường
là sản phẩm lao động của bản thân người đó và lao động phụ của người khác chỉ là
một ngoại lệ, thì giờ đây kẻ sở hữu tư liệu lao động vẫn tiếp tục chiếm hữu sản
phẩm, mặc dầu sản phẩm này không còn là sản phẩm của người đó nữa, mà hoàn
toàn là sản phẩm lao động của người khác. Như vậy, sản phẩm giờ đây do lao
động xã hội sản xuất ra không phải do những người thực sự vận dụng các tư liệu
sản xuất và thực sự sản xuất ra những sản phẩm ấy chiếm hữu, mà là do nhà tư bản
chiếm hữu. Tư liệu sản xuất và sản xuất, về thực chất, đã trở thành có tính chất xã
hội. Nhưng chúng vẫn phải phục tùng một hình thức chiếm hữu lấy sản xuất tư
nhân của người sản xuất cá thể làm tiền đề, hình thức trong đó mỗi người đều là
chủ nhân của sản phẩm của mình và đem những sản phẩm ấy ra thị trường.
Phương thức sản xuất phải phục tùng hình thức chiếm hữu ấy, mặc dầu nó đã xoá
bỏ tiền đề của hình thức chiếm hữu ấy. Trong cái mâu thuẫn ấy, cái mâu thuẫn đã
mang lại tính chất tư bản chủ nghĩa cho phương thức sản xuất mới, đã chứa đựng
sẵn những mầm mống của mọi sự xung đột hiện nay. Phương thức sản xuất mới
càng thống trị trong tất cả các công trường sản xuất quyết định và trong tất cả các
nước quyết định về mặt kinh tế, do đó càng chèn ép sản xuất cá thể đến mức chỉ
còn là những tàn dư không đáng kể thì sự không tương dung giữa sản xuất xã hội
và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa cũng phải thể hiện ra một cách càng nổi bật hơn.
Như đã nói, những nhà tư bản đầu tiên tìm thấy hình thức lao động làm thuê đã có
sẵn. Nhưng lao động làm thuê chỉ tồn tại với tư cách là một ngoại lệ, một công
Chống Duyhring III Chủ nghĩa xã hội
việc phụ, một nghề làm thêm, một tình hình quá độ. Người làm ruộng thỉnh thoảng
đi làm công nhật, có một mảnh đất vài moóc-ghen riêng của mình, chỉ trông vào
đó cùng lắm anh ta cũng có thể sống được. Quy chế phường hội chăm lo để cho
người thợ bạn hôm nay có thể trở thành người thợ cả ngày mai. Nhưng một khi
các tư liệu sản xuất trở thành những tư liệu sản xuất xã hội và tập trung trong tay
các nhà tư bản thì mọi việc đều thay đổi. Tư liệu sản xuất cũng như sản phẩm của
người sản xuất nhỏ cá thể ngày càng mất giá trị; anh ta chẳng còn cái gì khác
ngoài việc đi làm thuê cho nhà tư bản. Lao động làm thuê, trước kia là một ngoại
lệ và là một nghề làm thêm, nay trở thành thông lệ và là hình thức cơ bản của toàn
bộ nền sản xuất; trước kia là một công việc phụ thì nay nó đã biến thành hoạt động
duy nhất của công nhân. Người công nhân làm thuê tạm thời biến thành người
công nhân làm thuê suốt đời. Hơn nữa số công nhân làm thuê suốt đời lại tăng lên
một cách khổng lồ do sự tan rã đồng thời của chế độ phong kiến, việc giải tán các
đoàn tuỳ tùng của bọn chúa phong kiến, việc đuổi nông dân khỏi đất đai của họ,
v.v... Sự tách rời giữa một bên là những tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay
những nhà tư bản, và bên kia là những người sản xuất bị đẩy đến chỗ không còn
sở hữu gì nữa ngoài sức lao động của mình, đã hoàn thành. Mâu thuẫn giữa sản
xuất xã hội và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Chúng ta đã thấy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thâm nhập vào một xã
hội gồm những người sản xuất hàng hoá, những người sản xuất cá thể mà quan hệ
xã hội giữa họ với nhau được thực hiện thông qua sự trao đổi sản phẩm của họ.
Nhưng mọi xã hội dựa trên nền sản xuất hàng hoá đều có đặc điểm là trong xã hội
ấy, người sản xuất mất hết quyền lực đối với những quan hệ xã hội của chính bản
thân họ. Mỗi người sản xuất cho bản thân bằng những tư liệu sản xuất ngẫu nhiên
có trong tay và để thỏa mãn nhu cầu trao đổi của cá nhân mình. Không ai biết
được rằng bao nhiêu sản phẩm do mình sản xuất ra sẽ xuất hiện trên thị trường và
bao nhiêu sản phẩm ấy nói chung sẽ tìm được người tiêu thụ: không ai biết được
Chống Duyhring III Chủ nghĩa xã hội
rằng liệu có tìm được một nhu cầu thực sự cho sản phẩm của mình hay không, liệu
có thu lại được chi phí sản xuất hay nói chung có thể bán được hay không. Tình
trạng vô chính phủ thống trị trong sản xuất xã hội. Nhưng sản xuất hàng hóa, cũng
như mọi hình thức sản xuất khác, có những qui luật riêng, vốn có của nó và không
thể tách rời với nó. Và những quy luật ấy tự mở đường cho mình bất chấp tình
trạng vô chính phủ ấy, ở ngay trong tình trạng ấy và thông qua tình trạng ấy.
Những quy luật ấy biểu hiện ra trong hình thức duy nhất còn sót lại của quan hệ xã
hội, tức là trong trao đổi, và chúng tác động đến những người sản xuất cá biệt với
tư cách là những quy luật cưỡng chế của cạnh tranh. Do đó, bản thân những người
sản xuất ấy lúc đầu cũng không biết đến những quy luật ấy và chỉ qua một kinh
nghiệm lâu dài họ mới dần dần phát hiện ra chúng. Như vậy là những quy luật ấy
thực hiện mà không thông qua những người sản xuất, với tính cách là những quy
luật tự nhiên tác động một cách mù quáng của hình thức sản xuất của họ. Sản
phẩm thống trị người sản xuất.
Trong xã hội thời trung cổ, cụ thể là trong những thế kỷ đầu, sản xuất nhằm chủ
yếu là để thỏa mãn sự tiêu dùng của bản thân. Nó thỏa mãn chủ yếu là những nhu
cầu của người sản xuất và gia đình họ. Ở chỗ nào, như ở nông thôn có những quan
hệ lệ thuộc thân thể thì sản xuất cũng còn thỏa mãn những nhu cầu của chúa phong
kiến nữa. Do đó, ở đây không có trao đổi, và vì vậy sản phẩm cũng không mang
tính chất hàng hóa. Gia đình người nông dân sản xuất ra hầu hết những vật họ cần
dùng: cả công cụ và quần áo, cũng như thực phẩm. Chỉ khi nào họ sản xuất được
một số dư ngoài nhu cầu của bản thân và ngoài số phải nộp cho chúa phong kiến
dưới hình thức hiện vật, thì chỉ khi đó họ cũng sản xuất ra hàng hóa: số dư đó,
được ném vào trao đổi xã hội, nhằm để đem bán, đã trở thành hàng hóa. Dĩ nhiên,
những thợ thủ công ở thành thị ngay từ đầu đã buộc phải sản xuất để trao đổi.
Nhưng họ cũng phải sản xuất ra phần lớn những vật phẩm cần thiết cho những nhu
cầu của chính họ: họ có vườn rau và mảnh đất nhỏ; họ chăn gia súc của họ ở trong
rừng của công xã, những rừng này ngoài ra còn cung cấp cho họ gỗ xây dựng và
Chống Duyhring III Chủ nghĩa xã hội
chất đốt; phụ nữ thì kéo sợi lanh và len, v.v.. Sản xuất để trao đổi, tức là sản xuất
hàng hóa, lúc đó chỉ mới xuất hiện. Vì thế mà trao đổi hạn chế, thị trường hạn chế,
phương thức sản xuất ổn định, sự đóng cửa có tính chất địa phương đối với thế
giới bên ngoài, sự thống nhất có tính chất địa phương ở trong nước; mác-cơ ở
nông thôn, phường hội ở thành thị.
Nhưng cùng với sự mở rộng của sản xuất hàng hóa và nhất là cùng với sự xuất
hiện của phương thức sản xuất ta bản chủ nghĩa thì những quy luật của sản xuất
hàng hóa, từ trước tới nay vẫn còn ngái ngủ, liền bắt đầu tác động một cách công
khai hơn và mạnh mẽ hơn. Những mối liên hệ cũ bị dãn ra, những chướng ngại cũ
bị phá bỏ, những người sản xuất ngày càng biến thành những người sản xuất hàng
hóa độc lập và phân tán. Tình trạng vô chính phủ trong sản xuất xã hội bộc lộ ra
bên ngoài và ngày càng bị đẩy đến chỗ cùng cực. Nhưng công cụ chủ yếu nhất mà
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dùng để làm tăng thêm tình trạng vô chính
phủ ấy trong sản xuất xã hội, chính là cái đối lập trực tiếp với tình trạng vô chính
phủ; đó là sự tổ chức ngày càng tăng thêm của sản xuất, với tính cách là sản xuất
xã hội ở trong từng xí nghiệp sản xuất cá biệt. Chính là nhờ cái đòn bẩy ấy mà
phương thức sản xuất tư bản chủ ngiữ đã chấm dứt tình trạng ổn định hòa bình
trước kia. Trong bất cứ ngành công nghiệp nào mà phương thức sản xuất ấy thâm
nhập vào thì nó đều không để cho những phương pháp sản xuất cũ cùng tồn tại với
nó. Ở nơi nào mà nó khống chế được nền thủ công nghiệp thì nó liền tiêu diệt nền
thủ công nghiệp cũ. Địa bàn của lao động biến thành một bãi chiến trường, những
phát kiến lớn về địa lý và những công cuộc thực dân hóa tiếp sau những phát kiến
ấy làm tăng thêm gấp bội số thị trường tiêu thụ và đẩy nhanh việc biến thủ công
nghiệp thành công trường thủ công. . Đấu tranh không phải chỉ nổ ra giữa những
người sản xuất cá thể trong từng địa phương; những cuộc đấu tranh địa phương
đến lượt chúng, lại phát triển thành những cuộc đấu tranh giữa các nước, thành
những cuộc chiến tranh thương nghiệp trong thê kỷ XVII và XVIII. Cuối cùng đại
công nghiệp và sự tạo ra thi trường thế giới đã làm cho cuộc đấu tranh lan rộng
Chống Duyhring III Chủ nghĩa xã hội
khắp nơi và đồng thời đem lại cho nó một tính chất kịch liệt chưa từng thấy. Giữa
những nhà tư bản cá biệt cũng như giữa cả những ngành sản xuất và giữa cà các
nước, sự thuận lợi của những điêu kiện tự nhiên hoặc nhân tạo của sản xuất quyết
đinh sự sống còn cửa họ. Kẻ thất bại bị loại trừ thẳng tay. Đó chính là quy luật của
Darwin vẽ cuộc đấu tranh của sự sinh tồn cá nhân, được chuyền từ giới tự nhiên
vào xã hội một tính chất mãnh liệt gấp bội. Quan điểm tự nhiên của thú vật biểu
hiện ra đỉnh cao nhất của sự phát triển của loài người. Mâu thuẫn giữa sự sản xuất
xã hội và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa tái hiện ra thành sự đối lập giữa tính chất
có tổ chức của sản xuất trong mỗi công xưởng riêng biệt với tình trạng vô chính
phủ của sản xuất trong toàn thể xã hội.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vận dộng trong hai hình thức biểu hiện ấy
của cái mâu thuẫn vốn có của phương thức ấy do nguồn gốc của nó, nó đi theo
một "cái vòng luẩn quẩn" không có lồi thoát mà Fourier đã phát hiện ra trong
phương thức ấy[93]. Tuy nhiên, điều mà Fourier chưa thể thấy được trong thời đại
của mình là cái vòng ấy dần dần co hẹp lại, là nói cho đúng ra, sự vận động cửa
sản xuất theo một đường xoáy trôn ốc và giông như sự vận động của các hành
tinh, nó phải kết thúc bằng cách đâm vào trung tâm. Chính động lực của tình trạng
vô chính phủ của xã hội trong sản xuất đang biến ngày càng nhiều đại da sô người
ta thành những người vô sản, và chính quần chúng vô sản này cuối cùng lại sẽ
chấm dứt tình trạng vô chính phủ của sản xuất. Chính động lực của tình trạng vô
chính phủ của xã hội trong sản xuất đang biến cái khả năng cải tiến vô cùng tận
những máy móc trong dại công nghiệp thành một quy luật cưỡng chế đối với từng
nhà tư bản công nghiệp cá biệt, buộc họ phải không ngừng cải tiến máy móc của
mình, nếu không thì sẽ bị diệt vọng. Nhưng cải tiến máy móc có nghĩa là làm cho
một sô lao dộng của con người trở thành thừa. Nếu việc áp dụng và tăng thêm máy
móc có nghĩa là thay hàng triệu người lao đ