Mục tiêu cuối cùng của hệ thống kế toán của bất kỳ doanh nghiệp nào là cungcấp
thông tin cho những người có nhu cầu sử dụng thông tin để ra quyết định. Những người
sử dụng thông tin kế toán của một doanh nghiệp có thể phân loại thành hai nhóm:
những người bên trong doanh nghiệp và những người bên ngoài doanh nghiệp. Để đáp
ứng nhu cầu thông tin cho hai nhóm người khác nhau này, hệ thống thông tin kế toán
của một doanh nghiệp được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản là kế toán quản trị và kế
toán tài chính. Hệ thống thông tin kế toán quản trị đáp ứng nhu cầu thông tin cho
những người bên trong doanh nghiệp (các nhà quản lý ở các cấp trong doanh nghiệp)
để điều hành và kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp. Trong khi đó, hệ thống thông
tin kế toán tài chính đặt trọng tâm vào việc cung cấp thông tin cho những người bên
ngoài doanh nghiệp như các cổ đông, chủ nợ, và các cơ quan nhà nước thông qua việc
soạn thảo và công bố các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong phạm vi của giáo
trình này, chúng ta tìm hiểu và thảo luận về các báo cáo tài chính, sản phẩm của hệ
thống thông tin kế toán tài chính của một doanh nghiệp.
74 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1732 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương 11. Phương pháp lập báo cáo tài chính doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 11. Phương pháp lập Báo cáo tài chính doanh nghiệp
Chương 11. PHƯƠNG PHÁP LẬP BÁO CÁO TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
Mục tiêu chung
- Giúp cho người học nhận thức bản chất, nội dung, phương pháp, trình tự
lập các báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp.
- Trang bị cho người học phương pháp lập các báo cáo kế toán tài chính:
Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, báo cáo thuyết minh báo cáo tài chính,... trong doanh
nghiệp.
Mục tiêu cuối cùng của hệ thống kế toán của bất kỳ doanh nghiệp nào là cung cấp
thông tin cho những người có nhu cầu sử dụng thông tin để ra quyết định. Những người
sử dụng thông tin kế toán của một doanh nghiệp có thể phân loại thành hai nhóm:
những người bên trong doanh nghiệp và những người bên ngoài doanh nghiệp. Để đáp
ứng nhu cầu thông tin cho hai nhóm người khác nhau này, hệ thống thông tin kế toán
của một doanh nghiệp được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản là kế toán quản trị và kế
toán tài chính. Hệ thống thông tin kế toán quản trị đáp ứng nhu cầu thông tin cho
những người bên trong doanh nghiệp (các nhà quản lý ở các cấp trong doanh nghiệp)
để điều hành và kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp. Trong khi đó, hệ thống thông
tin kế toán tài chính đặt trọng tâm vào việc cung cấp thông tin cho những người bên
ngoài doanh nghiệp như các cổ đông, chủ nợ, và các cơ quan nhà nước thông qua việc
soạn thảo và công bố các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong phạm vi của giáo
trình này, chúng ta tìm hiểu và thảo luận về các báo cáo tài chính, sản phẩm của hệ
thống thông tin kế toán tài chính của một doanh nghiệp.
11.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH
11.1.1. Mục đích của báo cáo tài chính
Các báo cáo tài chính là sản phẩm của hệ thống kế toán tài chính của một doanh
nghiệp, trình bày một cách tổng quát tình hình tài chính của doanh nghiệp: tình hình
nguồn lực kinh tế (tài sản) và nguồn hình thành các nguồn lực này (nợ phải trả và vốn
chủ sở hữu); kết quả hoạt động kinh doanh (lợi nhuận); và dòng lưu chuyển tiền tệ của
doanh nghiệp.
Mục tiêu chủ yếu của báo cáo tài chính là cung cấp thông tin hữu ích về tình hình
tài chính của tổ chức cho những người sử dụng để ra các quyết định kinh tế. Thông tin
trên báo cáo tài chính chủ yếu được sử dụng bởi những người bên ngoài tổ chức như
các nhà đầu tư, các chủ nợ, các cơ quan Nhà nước, khách hàng, v.v…để ra các quyết
định đầu tư, cấp tín dụng, và các quyết định liên quan khác.
11.1.2. Hệ thống báo cáo tài chính
Kế toán tài chính 1 107
Chương 11. Phương pháp lập Báo cáo tài chính doanh nghiệp
Theo Luật kế toán, chuẩn mực kế toán, và chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành của
Việt Nam, hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp bao gồm bốn báo cáo sau đây:
1. Bảng cân đối kế toán,
2. Báo cáo kết quả kinh doanh,
3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
4. Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Theo chế độ kế toán Việt Nam, hệ thống báo cáo tài chính gồm báo cáo tài chính
năm (được lập khi kết thúc năm tài chính) và báo cáo tài chính giữa niên độ (báo cáo tài
chính quý). Hệ thống báo cáo tài chính năm được áp dụng cho tất cả các loại hình
doanh nghiệp thuộc các ngành và các thành phần kinh tế. Hệ thống báo cáo tài chính
giữa niên độ được áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), các doanh
nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, và các doanh nghiệp khác có nhu cầu lập
báo cáo tài chính giữa niên độ.
Hệ thống báo cáo tài chính năm bao gồm các mẫu báo cáo:
Bảng cân đối kế toán Mẫu số B01 - DN
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Mẫu số B02 - DN
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Mẫu số B03 - DN
Bản thuyết minh báo cáo tài chính Mẫu số B09 - DN
Hệ thống báo cáo tài chính giữa niên độ, bao gồm hai dạng là dạng đầy đủ và
dạng tóm lược.
Báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ gồm các mẫu báo cáo:
Bảng cân đối kế toán giữa niên độ (dạng đầy đủ) Mẫu số B01a – DN
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ (dạng đầy đủ) Mẫu số B02a – DN
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giữa niên độ (dạng đầy đủ) Mẫu số B03a – DN
Bản thuyết minh báo cáo tài chính chọn lọc Mẫu số B09a – DN
Báo cáo tài chính giữa niên độ dạng tóm lược gồm các mẫu báo cáo:
Bảng cân đối kế toán giữa niên độ (dạng tóm lược) Mẫu số B01b – DN
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ (dạng tóm lược) Mẫu số B02b – DN
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giữa niên độ (dạng tóm lược) Mẫu số B03b – DN
Bản thuyết minh báo cáo tài chính chọn lọc Mẫu số B09a – DN
(Nguồn: Bộ Tài chính, 2006)
Mẫu báo cáo tài chính của doanh nghiệp được trình bày trong những phần sau
của chương này và trong phần phụ lục của chương.
11.1.3- Trách nhiệm lập, trình bày, và nộp báo cáo tài chính
Kế toán tài chính 1 108
Chương 11. Phương pháp lập Báo cáo tài chính doanh nghiệp
a. Trách nhiệm lập và trình bày báo cáo tài chính
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21 “Trình bày báo cáo tài chính”, Giám đốc
hoặc người đứng đầu doanh nghiệp là người chịu trách nhiệm về lập và trình bày báo
cáo tài chính. Kế toán trưởng của doanh nghiệp là người có nhiệm vụ giúp Giám đốc tổ
chức thực hiện toàn bộ công tác kế toán, do vậy kế toán trưởng phải có trách nhiệm tổ
chức và thực hiện việc lập, trình bày, nộp, và công khai báo cáo tài chính theo đúng qui
định hiện hành của pháp luật.
Tất cả các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế đều phải lập và
trình bày báo cáo tài chính năm. Các công ty, tổng công ty có các đơn vị kế toán trực
thuộc, ngoài việc phải lập báo cáo tài chính năm của công ty, tổng công ty còn phải lập
báo cáo tài chính tổng hợp hoặc báo cáo tài chính hợp nhất vào cuối năm tài chính dựa
trên báo cáo tài chính của các đơn vị kế toán trực thuộc công ty, tổng công ty.
Các DNNN, các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán còn phải lập
báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ. Các doanh nghiệp khác nếu tự nguyện lập
báo cáo tài chính giữa niên độ thì được lựa chọn dạng đầy đủ hoặc tóm lược. Đối với
tổng công ty Nhà nước và DNNN có các đơn vị kế toán trực thuộc còn phải lập báo cáo
tài chính tổng hợp hoặc báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ.
Công ty mẹ và tập đoàn phải lập báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ và báo cáo
tài chính hợp nhất vào cuối năm tài chính theo quy định tại Nghị định số 129/2004/NĐ-CP
ngày 31/5/2004 của Chính phủ. Ngoài ra còn phải lập báo cáo tài chính hợp nhất sau khi
hợp nhất kinh doanh theo quy định của Chuẩn mực kế toán số 11 “Hợp nhất kinh doanh”.
(Bộ tài chính, 2006)
b. Trách nhiệm nộp báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp phải lập và nộp vào cuối quý, cuối năm
tài chính cho các cơ quan quản lý Nhà nước và cho doanh nghiệp cấp trên theo quy
định. Trường hợp có công ty con (công ty trực thuộc) thì phải gửi kèm theo bản sao
báo cáo tài chính cùng quý, năm của công ty con. Theo nghị định số 129/2004/NĐ-CP
ngày 31/5/2004 của Chính phủ, thời hạn và nơi nộp báo cáo tài chính được qui định
như sau:
Về thời hạn nộp báo cáo tài chính
- Báo cáo tài chính quý (áp dụng cho DNNN)
Các doanh nghiệp hạch toán độc lập và hạch toán phụ thuộc tổng công ty và các
doanh nghiệp hạch toán độc lập không nằm trong tổng công ty, thời hạn gửi báo cáo
tài chính quý chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày kết thúc quý; đối với các tổng công ty,
thời hạn gửi báo cáo tài chính quý chậm nhất là 45 ngày kể từ ngày kết thúc quý.
- Báo cáo tài chính năm
Ðối với DNNN: các doanh nghiệp hạch toán độc lập và hạch toán phụ thuộc tổng
công ty và các doanh nghiệp hạch toán độc lập không nằm trong các tổng công ty, thời
hạn gửi báo cáo tài chính năm chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính;
Kế toán tài chính 1 109
Chương 11. Phương pháp lập Báo cáo tài chính doanh nghiệp
đối với tổng công ty, thời hạn gửi báo cáo tài chính năm chậm nhất là 90 ngày kể từ
ngày kết thúc năm tài chính.
Ðối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh: thời hạn gửi báo cáo tài
chính năm chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
Ðối với các loại hình doanh nghiệp khác như công ty TNHH, công ty cổ phần,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình hợp tác xã: thời hạn gửi báo
cáo tài chính năm chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
Về nơi nộp báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan thuế, cơ quan thống
kê, cơ quan cấp đăng ký kinh doanh cùng cấp và cơ quan khác theo quy định của pháp
luật. Đối với DNNN còn phải nộp báo cáo tài chính cho cơ quan tài chính cùng cấp.
Đơn vị kế toán trực thuộc còn phải nộp báo cáo tài chính cho đơn vị kế toán cấp trên.
Nơi nhận báo cáo tài chính được tóm tắt trong bảng sau:
Nơi nhận báo cáo
CÁC LOẠI
DOANH NGHIỆP
Kỳ
lập
báo
cáo
Cơ
quan
tài
chính
Cơ
quan
thuế
Cơ
quan
thống
kê
DN
cấp
trên
Cơ quan
đăng ký
kinh doanh
1. Doanh nghiệp Nhà nước Quý,
Năm
x
(1)
X x x x
2. Doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài
Năm x X x x x
3. Các loại doanh nghiệp khác Năm X x x x
Đối với các DNNN đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
phải lập và nộp báo cáo tài chính cho Sở Tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Đối với DNNN Trung ương còn phải nộp báo cáo tài chính cho Bộ Tài chính
(Cục Tài chính doanh nghiệp).
Các doanh nghiệp phải gửi báo cáo tài chính cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý
thuế tại địa phương. Đối với các Tổng công ty Nhà nước còn phải nộp báo cáo tài chính
cho Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế).
DNNN có đơn vị kế toán cấp trên phải nộp báo cáo tài chính cho đơn vị kế toán
cấp trên. Đối với doanh nghiệp khác có đơn vị kế toán cấp trên phải nộp báo cáo tài
chính cho đơn vị cấp trên theo quy định của đơn vị kế toán cấp trên.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải nộp báo cáo tài chính cho các cơ quan khác
theo qui định của pháp luật, ví dụ như các công ty kinh doanh chứng khoán phải nộp
báo cáo tài chính cho Trung tâm giao dịch chứng khoán và cho Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước.
Kế toán tài chính 1 110
Chương 11. Phương pháp lập Báo cáo tài chính doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp mà pháp luật quy định phải kiểm toán báo cáo tài
chính thì phải kiểm toán trước khi nộp báo cáo tài chính theo quy định. Báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp đã thực hiện kiểm toán phải đính kèm báo cáo kiểm toán
vào báo cáo tài chính khi nộp cho các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp cấp
trên.
c. Trách nhiệm công khai báo cáo tài chính
Các doanh nghiệp phải công khai báo cáo tài chính theo qui định hiện hành của
pháp luật. Việc công khai báo cáo tài chính được thực hiện theo các hình thức: phát
hành ấn phẩm, thông báo bằng văn bản, niêm yết, hoặc bằng các hình thức khác theo
quy định của pháp luật.
Nội dung công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán thuộc hoạt động kinh
doanh gồm:
- Tình hình tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu,
- Kết quả hoạt động kinh doanh,
- Trích lập và sử dụng các quỹ,
- Thu nhập của người lao động.
Báo cáo tài chính của đơn vị kế toán đã được kiểm toán khi công khai phải kèm
theo kết luận của tổ chức kiểm toán.
Thời hạn công khai báo cáo tài chính được qui định như sau:
Đối với DNNN: doanh nghiệp độc lập phải công khai báo cáo tài chính năm
trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính; đối với tổng công ty Nhà
nước thì thời hạn công khai báo cáo tài chính chậm nhất là 120 ngày. Đối với doanh
nghiệp trực thuộc tổng công ty Nhà nước phải công khai báo cáo tài chính năm trong
thời hạn do tổng công ty qui định, nhưng không chậm hơn 90 ngày kể từ ngày kết thúc
năm tài chính.
Ðối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh: thời hạn công khai báo cáo
tài chính năm chậm nhất là 60 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
Ðối với các loại hình doanh nghiệp khác như công ty TNHH, công ty cổ phần,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình hợp tác xã: thời hạn công
khai báo cáo tài chính năm chậm nhất là 120 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
11.1.4- Yêu cầu lập và trình bày báo cáo tài chính
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21 “Trình bày báo cáo tài chính” qui định các
yêu cầu cần phải tuân thủ khi lập và trình bày báo cáo tài chính như sau:
- Trung thực và hợp lý,
- Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với qui định của từng
chuẩn mực kế toán nhằm đảm bảo cung cấp thông tin thích hợp với nhu cầu ra các
quyết định kinh tế của người sử dụng và cung cấp được các thông tin đáng tin cậy.
Kế toán tài chính 1 111
Chương 11. Phương pháp lập Báo cáo tài chính doanh nghiệp
Trung thực và hợp lý: Báo cáo tài chính phải trình bày trung thực và hợp lý
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Để thoả mãn yêu cầu này, báo cáo tài chính phải
được lập và trình bày trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán kế toán và chế độ kế
toán hiện hành. Doanh nghiệp cần nêu rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính là
báo cáo tài chính được lập và trình bày phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt
Nam. Báo cáo tài chính được coi là lập và trình bày phù hợp với chuẩn mực và chế độ
kế toán Việt Nam nếu báo cáo tài chính tuân thủ mọi quy định của từng chuẩn mực và
chế độ kế toán hiện hành hướng dẫn thực hiện chuẩn mực kế toán Việt Nam của Bộ
Tài chính.
Thích hợp: Báo cáo tài chính phải thích hợp và hữu ích với nhu cầu ra quyết
định của những người sử dụng. Thông tin là thích hợp và hữu ích khi chúng giúp
người sử dụng để dự báo tương lai hoặc đánh giá những quyết định quá khứ. Tuy
nhiên, vì báo cáo tài chính được sử dụng bởi nhiều đối tượng khác nhau, có mối quan
tâm và các quyết định khác nhau, do đó yêu cầu thích hợp và hữu ích của báo cáo tài
chính được xem xét và qui định trên cơ sở mục tiêu sử dụng chung của báo cáo tài
chính.
Đáng tin cậy: Báo cáo tài chính phải cung cấp thông tin tin cậy cho những
người sử dụng để ra quyết định. Để đảm bảo độ tin cậy của thông tin, báo cáo tài
chính phải trình bày một cách trung thực, hợp lý tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Ngoài ra, để đảm bảo tính tin cậy của thông tin trên báo cáo tài chính, báo cáo tài
chính phải được trình bày khách quan, không thiên vị, phản ánh đúng sự thực và bản
chất kinh tế của các giao dịch phát sinh. Mọi sự xuyên tạc, bóp méo thông tin về các
giao dịch kinh tế phát sinh và trình bày thông tin theo ý muốn chủ quan của nhà quản
lý doanh nghiệp đều làm suy giảm tính trung thực và khách quan của thông tin trên
báo cáo tài chính.
Để đáp ứng yêu cầu tin cậy của thông tin, báo cáo tài chính còn phải được trình
bày đầy đủ các thông tin trọng yếu, nghĩa là báo cáo tài chính phải phản ánh đầy đủ các
nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh trong kỳ kế toán. Khi lập báo cáo tài chính, không được
bỏ sót hoặc thiếu hụt các thông tin mang tính trọng yếu vì điều này sẽ ảnh hưởng đến
tính chính xác của các quyết định của người sử dụng. Việc tuân thủ nguyên tắc thận
trọng trong kế toán cũng là một yêu cầu quan trọng để đảm bảo cung cấp thông tin đáng
tin cậy cho người sử dụng. Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để
lập các ước tính kế toán trong các điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc thận trọng
đòi hỏi phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn, không đánh giá cao hơn
giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập, không đánh giá thấp hơn giá trị của các
khoản nợ phải trả và chi phí, doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng
chứng chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận
khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.
Kế toán tài chính 1 112
Chương 11. Phương pháp lập Báo cáo tài chính doanh nghiệp
11.1.5- Các nguyên tắc cần tuân thủ khi lập và trình bày báo cáo tài chính
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ sáu (6) nguyên tắc được quy
định trong chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21 “Trình bày báo cáo tài chính”, gồm: (1)
hoạt động liên tục, (2) cơ sở dồn tích, (3) nhất quán, (4) trọng yếu và tập hợp, (5) bù
trừ, và (6) có thể so sánh.
Hoạt động Liên tục: Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh
nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong
tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp không có ý định cũng như không buộc phải ngừng
hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động của mình. Trường hợp thực tế
khác với giả định hoạt động liên tục thì báo cáo tài chính phải lập trên một cơ sở khác
và phải giải thích cơ sở đã sử dụng để lập báo cáo tài chính.
Cơ sở dồn tích: Theo cơ sở dồn tích, mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh
nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải
được ghi nhận tại thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực
tế chi tiền hoặc tương đương tiền. Doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính theo cơ sở
kế toán dồn tích, ngoại trừ các thông tin liên quan đến các luồng tiền.
Nhất quán: Việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo tài chính phải
nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi có sự thay đổi đáng kể về bản chất
các hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình bày báo cáo tài chính
cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể trình bày một cách hợp lý hơn các giao dịch
và các sự kiện; hoặc được một chuẩn mực kế toán khác yêu cầu có sự thay đổi trong
việc trình bày.
Trọng yếu và tập hợp: Từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt
trong báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày riêng
rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01, thông tin được coi là trọng yếu trong
trường hợp nếu thiếu thông tin hoặc thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai
lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử
dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông tin
hoặc các sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin
phải được xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính.
Bù trừ: Các khoản mục tài sản và nợ phải trả trình bày trên báo cáo tài chính
không được bù trừ mà phải trình bày riêng biệt tất cả các khoản mục tài sản và công
nợ trên báo cáo tài chính, trừ khi một chuẩn mực kế toán khác quy định hoặc cho phép
bù trừ. Các khoản mục doanh thu và chi phí chỉ được bù trừ khi được qui định tại một
chuẩn mực kế toán cụ thể khác hoặc các khoản lãi, lỗ và các chi phí liên quan phát
sinh từ các giao dịch và các sự kiện giống nhau hoặc tương tự và không có tính trọng
yếu. Các tài sản và nợ phải trả, các khoản thu nhập và chi phí có tính trọng yếu phải
được báo cáo riêng biệt. Việc bù trừ các số liệu trong báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh hoặc bảng cân đối kế toán sẽ không cho phép người sử dụng hiểu được các giao
Kế toán tài chính 1 113
Chương 11. Phương pháp lập Báo cáo tài chính doanh nghiệp
dịch hoặc sự kiện được thực hiện và dự tính được các luồng tiền trong tương lai của
doanh nghiệp, ngoại trừ trường hợp việc bù trừ này phản ánh bản chất của giao dịch
hoặc sự kiện.
Có thể so sánh: Các thông tin bằng số liệu trong báo cáo tài chính nhằm để so
sánh giữa các kỳ kế toán phải được trình bày tương ứng với các thông tin bằng số liệu
trong báo cáo tài chính của kỳ trước. Các thông tin so sánh cần phải bao gồm cả các
thông tin diễn giải bằng lời nếu điều này là cần thiết để giúp cho những người sử dụng
hiểu rõ được báo cáo tài chính của kỳ hiện tại.
Khi thay đổi cách trình bày hoặc cách phân loại các khoản mục trong báo cáo tài
chính, thì phải phân loại lại các số liệu so sánh (trừ khi việc này không thể thực hiện
được) nhằm đảm bảo khả năng so sánh với kỳ hiện tại, và phải trình bày tính chất, số
liệu và lý do việc phân loại lại. Nếu không thể thực hiện được việc phân loại lại các số
liệu tương ứng mang tính so sánh thì doanh nghiệp cần phải nêu rõ lý do và tính chất
của những thay đổi nếu việc phân loại lạ