Chương 3 Sinh vật biển và các hệ sinh thái biển Việt Nam

Vùng biển Việt Nam thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, ở vị trí giao lưu của nhiều dòng nước có tính chất thuỷ học khác nhau từ phía bắc, phía nam và phía đông chảy tới. Vùng biển ven bờ Việt Nam mang tính chất biển nông, nền đáy tương đối đồng nhất, mặc dù có nhiều sông đổ ra. Do vùng biển trải dài theo phương kinh tuyến từ xích đạo đến vĩ tuyến 23oN nên điều kiện khí hậu có sai khác giữa vùng biển phía bắc và phía nam. Những đặc điểm trên đây của môi trường sống Biển Đông có quan hệ tới cấu trúc, thành phần loài, phân bố và đặc tính sinh học của khu hệ sinh vật biển Việt Nam. Có thể nêu lên những đặc điểm cơ bản nhất sau đây:

pdf25 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3318 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương 3 Sinh vật biển và các hệ sinh thái biển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
113 Chương 3 Sinh vật biển và các hệ sinh thái biển Việt Nam 3.1. Sinh vật biển Việt Nam 3.1.1. Đặc điểm chung Vùng biển Việt Nam thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, ở vị trí giao lưu của nhiều dòng nước có tính chất thuỷ học khác nhau từ phía bắc, phía nam và phía đông chảy tới. Vùng biển ven bờ Việt Nam mang tính chất biển nông, nền đáy tương đối đồng nhất, mặc dù có nhiều sông đổ ra. Do vùng biển trải dài theo phương kinh tuyến từ xích đạo đến vĩ tuyến 23oN nên điều kiện khí hậu có sai khác giữa vùng biển phía bắc và phía nam. Những đặc điểm trên đây của môi trường sống Biển Đông có quan hệ tới cấu trúc, thành phần loài, phân bố và đặc tính sinh học của khu hệ sinh vật biển Việt Nam. Có thể nêu lên những đặc điểm cơ bản nhất sau đây: Thành phần loài sinh vật biển Việt Nam mang tính chất nhiệt đới ấn Độ - Tây Thái Bình Dương, đa dạng và phong phú, với các nhóm động vật, thực vật đặc trưng nhiệt đới như : thực vật ngập mặn, san hô, tôm he, trai tai tượng (Tridaena), sứa lược dẹp (Patyctenida), sứa ống (Siphonophora) ... Bên cạnh những sinh vật hiện đại, cũng thấy có các dạng động vật biển nhiệt đới mang tính chất cổ như sam (Tachypleus tridentatus), hà ngón tay (Mitella), cá lưỡng tiêm (Branchiotomas), giá biển (Lingula), ốc anh vũ (Nartttilus) tuy không phong phú bằng các vùng biển nhiệt đới điển hình phía nam. Tính chất nhiệt đới của khu hệ sinh vật biển Việt Nam còn thể hiện cả ở cấu trúc thành phần loài và đặc tính sinh học, thấy rõ ở cá biển, sinh vật nổi, sinh vật đáy. Do ảnh hưởng của các dòng nước biển giao lưu, di chuyển sinh vật biển từ phía bắc, phía nam và từ đại dương phía đông tới, thành phần loài sinh vật biển Việt Nam mang tính chất hỗn hợp, bao gồm nhiều thành phần có nguồn gốc địa lý sinh vật khác nhau như : các loài cận nhiệt đới có phân bố từ biển Trung Quốc - Nhật Bản đi xuống, các loại nhiệt đới đặc trưng có phân bố từ biển Indonesia - Malaysia đi lên, các loài đại dương di cư theo mùa vào vùng biển Việt Nam. Đặc tính hỗn hợp này tạo thêm sắc thái đa dạng cho sinh vật biển Việt Nam. 114 Khu hệ đông vật biển ven bờ Việt Nam được coi là còn trẻ, chỉ mới được hình thành từ cuối Pleistoxen (Gurianova, 1972), vì vậy trong thành phần loài rất ít loài đặc hữu (endemic). Đặc điểm này cũng giống như đã thấy ở biển ven bờ phía đông Trung Quốc, nhưng khác với biển Nhật Bản, Philippin. ở các vùng biển này, có tỉ lệ giống và loài đặc hữu tương đối cao, trong khi đó ở biển Việt Nam cho tới này chỉ thấy có một số ít loài đặc hữu tạm thời trong các nhóm : giun nhiều tơ, cua, tôm he, trai, mực ... Biển Đông kéo dài trên 23 vĩ độ trong đó vùng biển Việt Nam kéo dài khoảng 15 vĩ độ, do vị trí địa lý đặc biệt, vùng biển phía bắc (vịnh Bắc Bộ) và vùng biển phía nam có khác biệt rõ rệt về điều kiện khí hậu và thuỷ văn nên sinh vật biển vùng phía bắc Việt Nam mang tính chất nhiệt đới không hoàn toàn, biểu hiện ở sự có mặt của các nhóm loài cận nhiệt đới không thấy có ở vùng biển phía nam, cũng như sự nghèo nàn của một số nhóm loài nhiệt đới điển hình như: san hô, hải miên, thực vật sú vẹt ... Cũng còn có khác biệt cả trong đặc tính sinh học giữa sinh vật biển sống vùng biển phía bắc và phía nam. Các đặc điểm trên đây đã tạo cho sinh vật biển Việt Nam một sắc thái riêng, tuy rằng có những nét chung với sinh vật biển các khu vực lân cận. 3.1.2. Sinh vật phù du và trứng cá cá bột Tổng hợp các kết quả điều tra nghiên cứu về sinh vật phù du ở vùng biển Việt Nam từ 1959 tới nay, có thể cho ta hiểu biết được những nét khái quát về thành phần loài, số lượng cũng như đặc tính phân bố ở các khu vực biển cũng như trên toàn vùng biển. Trên toàn vùng biển Việt Nam đã thống kê được 537 loài thực vật phù du thuộc 4 ngành.  Tảo kim (Silicoflagellata)có 2 loài, chiếm 0,37%.  Tảo lam (Cynophyta) có 3 loài, chiếm 0.56 %.  Tảo giáp (Pyrrophyta) có 184 loài, chiếm 35,26 %).  Tảo silic (Bacillasiophyta) có 348 loài, chiếm 64,8%. ở vịnh Bắc Bộ đã thống kê được 318 loài (59,2%) và ở vùng biển phía nam (biển miền Trung, Đông, Tây Nam Bộ) có 468 loài (87,15% trong tổng số loài). Qua những số liệu trên cho thấy : thành phần loài thực vật phù du ở vùng biển phía nam phong phú hơn và trên toàn vùng biển cũng như ở từng khu vực biển, nhóm tảo silic chiếm ưu thế về thành phần loài. Về động vật phù 115 du, trên toàn vùng biển Việt Nam đã thống kê được 657 loài, không kể động vật nguyên sinh và trứng cá, cá bột (Kschyoplankton), trong đó ở vịnh Bắc Bộ đã phát hiện 236 loài (35,92%) và vùng biển Nam Việt Nam - 605 loài (92,08%). Trong thành phần loài động vật phù du, nhóm giáp xác - trong đó chủ yếu là Copepoda, chiếm ưu thế gồm 398 loài (60,58%), thứ hai là ruột khoang gồm các nhóm Hydromedusae, Siphonophora 102 loài (15,55%), các nhóm khác số loài ít hơn (dưới 10%) trong tổng số loài. Căn cứ vào đặc tính thích ứng với độ muối nước biển, có thể phân chia sinh vật phù du ở biển Việt Nam thành 4 nhóm sinh thái sau. 1. Tập hợp loài đặc trưng cho vùng nước cửa sông có độ mặn chỉ dưới 30%o có thể giảm thấp đến 20%o về mùa mưa, gồm một số loài thuộc các giống Chaetoceros (tảo silic), Sinocalanus, Schmaclheria, Acartia (Copepoda). 2. Tập hợp loài đặc trưng cho vùng biển nước nhạt ven bờ, có độ mặn dưới 32,5%0, gồm nhiều loài thuộc các giống Calanus, Canthocalanus, Oikopleura, Unlinula,Temora, Labidocera, Centropages (Copepoda), Lucifer (Sergesidae), Skeletonema, Thalassionema, Hemianlus, Hemidiscus (tảo Silic). 3. Tập hợp loài đặc trưng cho vùng biển khơi có độ mặn cao, trên 33,5%, gồm nhiều loài thuộc các giống Eucalanus, Scottocalanus, Nescalanus, Rhinocalanus, Euchaeta, Camdacia, Gaetanus, Actideus, Euchirella, Gausis (Copepoda), Sagitta, Pterosagitta(Chaelognatha), Coscinodiscus, một số loài Chaetoceros (tảo Silic). 4. Ngoài ra, còn có thể phân biệt một nhóm loài rộng muối từ ngoài khơi, hoặc từ vùng ven bờ có thể tập hợp ở vùng giao nhau của hai khối nước mặn và nhạt trong khoảng 32,5 - 33,5%o tạo thành tập hợp loài hỗn hợp. Nhìn chung, hai tập hợp loài nước nhạt ven bờ và nước mặn vùng khơi (2 và 3) là hai tập hợp loài cơ bản của sinh vật phù du Việt Nam có diện phân bố rộng và tương đối ổn định trong điều kiện tự nhiên (độ muối) tương ứng. Hai tập hợp loài còn lại (1 và 4) có diện phân bố hẹp và ít ổn định hơn do sự biến đổi của vùng nước cửa sông và vùng nước giao nhau. Về số lượng, thực vật phù du ở vùng biển Việt Nam có mật độ bình quân tương đối cao so với các vùng biển lân cận. Biển Tây Nam Bộ có mật độ bình quân cao nhất (5.934.000 tế bào/m3 nước biển), sau đó là vịnh Bắc Bộ 116 (1.926.000 tế bào/m3). Vùng biển miền Trung và Đông Nam Bộ thấp hơn (437.000 tế bào/m3 và 827.000 tế bào/m3). Biến động số lượng của thực vật phù du không giống nhau ở các khu vực biển. ở vịnh Bắc Bộ, số lượng cao vào mùa đông và mùa thu, vào mùa xuân - hạ số lượng giảm thấp. ở biển miền Trung và Đông Nam Bộ chỉ có cực đại mùa hạ. Về phân bố số lượng, thực vật phù du ở biển Việt Nam thường tập trung ở vùng gần bờ, nơi có ảnh hưởng của các dòng nước sông từ lục địa đổ ra, giàu muối dinh dưỡng. ở vùng nước trồi (biển miền Trung và Đông Nam Bộ) và nước phân kỳ (vịnh Bắc Bộ), thực vật phù du cũng phát triển mạnh do muối dinh dưỡng được đưa từ đáy lên tầng nước mặt. Khối lượng bình quân động vật phù du ở biển Việt Nam cũng khác nhau theo các khu vực biển. Vịnh Bắc Bộ và biển Tây Nam Bộ có khối lượng lớn nhất (71, 33 và 79,86 mg/m3), còn biển miền Trung và Đông Nam Bộ thấp hơn (28,55-21,97 mg/m3). Khối lượng động vật phù du lớn nhất ở vịnh Bắc Bộ có nơi lên tới 917 mg/m3 và ở Tây Nam Bộ đã có nơi lên tới 1.376 mg/m3 (không kể nhóm một khoang). Biển Đông khối lượng động vật phù du theo mùa không giống nhau ở các khu vực biển. ở vịnh Bắc Bộ, các đỉnh cao khối lượng thấy ở mùa hạ và mùa đông, cũng như ở biển miền Trung. ở biển Đông Nam Bộ, khối lượng cao lại ở mùa hạ và mùa thu. Về phân bố số lượng động vật phù du có nhận xét rằng khối lượng thường thấy ở khu vực giao nhau giữa hai khối nước nhạt ven bờ và khối nước mặn vùng khơi. Cần lưu ý rằng trong khối lượng động vật phù du nói chung, khối lượng Copepoda chiếm phần chủ yếu, vì vậy biến động phân bố khối lượng Copepoda thường là phù hợp với biến động phân bố khối lượng động vật phù du. Phần lớn khối lượng động vật phù du tập trung ỏ lớp nước - 100m ước tính khoảng 3.070.678 tấn. Ngoài ra còn có 937.827 tấn ở lớp nước 100-200m. Đây cũng là tầng nước mà cá tầng trên có di cư kiếm mồi. Trứng cá và cá bột, do kích thước và đặc tính sinh thái nên thường đi kèm với sinh vật phù du trong nghiên cứu. Kết quả điều tra nghiên cứu trứng cá và cá bột ở nhiều khu vực biển, nhất là ở vịnh Bắc Bộ và vùng biển Thuận Hải - Minh Hải cho thấy thành phần loài chủ yếu của trứng cá và cá bột ở ven biển gồm đại diện của các bộ: cá lưỡng tiêm (Amphisioformé), cá cháo 117 (Elopiformes), cá măng biển (Gonorhynchiformes), cá đèn lồng (Myctophiformes), cá trích (Clupeiformes), cá hồi (Salmoniformes), cá nhói (Beloniformes), cá tuyết (Gadiformes), cá đối (Mugiliformes), cá vược (Percifformes), cá bơn (Pleuronecitifomes). ở vùng biển Việt Nam, trứng cá và cá bột xuất hiện quanh năm là điểm khác cơ bản so với vùng biển ôn đới . ở vịnh Bắc Bộ số lượng tương đối ít, chỉ tập trung ở vùng ven bờ phía bắc, phía đông và tây vịnh, quanh đảo Bạch Long Vĩ ; còn ở biển miền Trung và Đông Nam bộ, Tây Nam Bộ lại có số lượng tương đối nhiều, tập trung ở cửa sông Cửu Long và ven bờ Thuận Hải. Trong mùa gió tây nam ở vịnh Bắc Bộ, số lượng trứng cá và cá bột nhiều lần hơn hẳn vụ đông, tập trung ở ven bờ tây bắc vịnh, từ Quảng Ninh đến Thanh Hoá, tây nam bán đảo Lôi Châu và ven bờ tây nam đảo Hải Nam. ở biển miền Trung và Đông, Tây Nam Bộ, biến động theo mùa không rõ rệt. Các vùng mật độ phân bố cao của trứng cá và cá bột thường trùng hợp với vùng khối lượng cao sinh vật phù du, đặc biệt là quanh đảo Bạch Long Vĩ, ven bờ từ Phan Thiết tới sông Hậu ..., đồng thời cũng trùng hợp với các vùng khai thác cá quan trọng. 3.1.3. Sinh vật đáy Thành phần loài động vật đáy biển Việt Nam rất phong phú, cho tới nay đã biết khoảng 6.000 loài động vật đáy lớn (macrobenthos). Trong số này nhiều nhất là động vật thân mềm khoảng 2.500 loài, giáp xác 1.500 loài, giun nhiều tơ có 700 loài, ruột khoang 650 loài, da gai 350 loài và hải miên có 150 loài. Phân bố thành phần loài động vật đáy theo xu thế tăng dần từ bắc xuống nam. Số loài có phân bố chung trên toàn vùng biển chiếm khoảng 30%. Số loài đăc trưng cho từng vùng biển : ở vịnh Bắc Bộ chỉ chiếm 20%, ở biển miền Trung và miền Nam chiếm khoảng 50%.Về địa lý sinh vật, phần lớn các loài sinh vật đáy có phạm vi phân bố rộng trong vùng nhiệt đới vùng ấn Độ - Tây Thái Bình Dương, trừ một số ít loài có phân bố toàn cầu. So sánh số loài động vật đáy ở các khu vực biển khác nhau, có thể thấy các nhóm loài động vật đáy quan trọng (giun nhiều tơ, thân mềm giáp xác, da gai) phong phú nhất ở vùng biển miền Trung, tiếp đến vịnh Bắc Bộ. Biển Nam Bộ có số loài ít hơn cả (ở cả 4 nhóm nói trên). Trong mỗi vùng đều có thể thấy các nhóm loài đặc trưng. 118 Khối lượng sinh vật đáy bình quân trên toànvùng biển thấp hơn so với khu vực thềm lục địa của biển ôn đới phía bắc. Tuy nhiên,do điều kiện nền đáy khác nhau nên sự phân bố số lượng sinh vật đáy cũng khác nhau ở các vùng biển vịnh Bắc Bộ có khối lượng sinh vật bình quân 8,51 g/m2, so với mật độ bình quân 70,76 cá thể/m2, trong đó da gai và giáp xác chiếm ưu thế số lượng. Khu vực phía bắc vịnh có số lượng bình quân cao hơn 15 g/m2, vùng ven bờ phía tây chỉ 10 g/m2. Khu vực có khối lượng cao thường ở độ sâu không quá 20m. ở vùng biển miền Trung, có độ dốc lớn và biến đổi đột ngột số lượng bình quân sinh vật đáy rất thấp,vùng có khối lượng sinh vật dưới 1 g/m2 và 50 cá thể /m2 chiếm phần lớn diện tích. Chỉ ở vùng sát bờ hoặc vùng vịnh số lượng sinh vật đáy mới cao hơn, có thể đạt tới 30,54 g/m2 và 139,73 cá thể /m2 như ở vịnh Văn Phong - Bến Gỏi (Nha Trang). Vùng biển Nam Bộ từ Phan Rang trở vào có khối lượng sinh vật đáy bình quân 4,05 g/m2 và 131,09 cá thể /m2, khối lượng nhỏ nhưng mật độ cao, do các nhóm động vật kích thước nhỏ (giáp xác, giun nhiều tơ) chiếm ưu thế trong thành phần số lượng. Khu vực biển có khối lượng cao trên 15 g/m2 là dải ven bờ Hàm Tân - Vũng Tàu và đông nam Côn Đảo. Khu vực có mật độ cao trên 200 cá thể/m2 là dải ven bờ từ Phan Thiết đến cửa sông Hậu và phía nam Côn Đảo. Nhìn chung, số lượng sinh vật đáy có xu thế giảm dần từ bờ ra khơi. Về sinh thái, biển Việt Nam có thể phân chia các nhóm sinh thái sau: 1. Các loài rộng nhiệt, độ muối thấp, tập trung ở dải ven bờ 5 - 10m sâu, độ muối khoảng 24-30 %o. 2. Các loài rộng nhiệt, độ muối cao sống xa bờ, ở độ sâu trên 10m, độ muối 29-33%o. 3. Các loài rộng nhiệt, rộng muối chiếm tỉ lệ cao trong thành phần loài sinh vật đáy biển Việt Nam, khả năng thích ứng rộng nên chúng phân bố rộng. 4. Các loài hẹp nhiệt, độ muối cao phân bố xa bờ, ít chịu ảnh hưởng khí hậu lục địa. Về quan hệ với chất đáy, có thể phân chia thành các nhóm sau : 1. Nhóm thích ứng với đáy bùn, giàu chất hữu cơ, chiếm nhiều vùng rộng lớn ở biển Việt Nam. 2. Nhóm thích ứng với đáy cát, ít hơn so với nhóm trên. 3. Nhóm thích ứng với đáy đá. 119 Ngoài ra còn có nhóm loài thích ứng rộng với cả đáy cát và đáy bùn. Quần xã sinh vật đáy biển Việt Nam mang những nét đặc trưng nhiệt đới như: có thành phần loài đa dạng, trong các quần xã thường động vật giáp xác chiếm ưu thế. 3.1.4. Cá biển Cho tới nay thành phần loài cá biển Việt Nam đã thống kê được 2.038 loài, thuộc 717 giống, 198 họ, 32 bộ, trong đó có 126 loài thuộc diện qúy hiếm, ít gặp và khoảng 100 loài có giá trị kinh tế (Trần Định và Nguyễn Nhật Thi, 1985). So với các vùng biển cận nhiệt đới phía bắc như Hoàng Hải (có 201 loài). Đông Hải (492 loài), thành phần loài cá biển Việt Nam rõ ràng phong phú hơn, nhưng so với các vùng biển nhiệt đới phía nam (Indonesia, Maláyia) thì nghèo hơn. Tình hình này chủ yếu là do sự kém phong phú các nhóm loài nhiệt đới điển hình ở biển Việt Nam, nhất là ở vịnh Bắc Bộ như các họ cá san hô Ponmacentridae, Labridae, Scaidae, họ cá hồng Lutianidae, họ cá dea Muarenidae, số loài đã biết ở biển Việt Nam đều ít hơn hẳn so với vùng biển Malaysia. Về mặt cấu trúc thành phần loài, theo đặc tính phân bố có thể phân chia cá biển Việt Nam thành 3 nhóm :  Nhóm loài nhiệt đới điển hình chiếm khoảng 25% số loài, có phân bố trong vùng biển nhiệt đới phía nam, nhưng không vượt quá vịnh Bắc Bộ về phía bắc.  Nhóm loài cận nhiệt đới chiếm khoảng 10% số loài, có phân bố ở vùng biển phía bắc, nhưng không vượt quá vịnh Bắc Bộ ở phía nam.  Nhóm loài rộng nhiệt phân bố rộng trong các vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới ấn Độ - Tây Thái Bình Dương, chiếm khoảng 65% số loài. Theo đặc tính sinh thái nơi cư trú, có thể phân chia thành 4 nhóm cá biển : 1. Nhóm cá nổi gồm các loài cá sống ở tầng nước trên, khoảng 20% số loài. Đại diện cho nhóm này có các loài trong họ cá nhám (Carcharhinidae), cá chuồn (Exocoetidae), cá thu ngừ (Scombridae), cá trích (Clupeidae), cá lanh (Chirocentridae), cá cơm (Engraulidae) v.v... 120 2. Nhóm cá gần đáy: gồm các loài cá sống ở tầng nước giữa và gần đáy. Đây là nhóm cá lớn, có số loài đông, chiếm khoảng 35% số loài. Đại diện cho nhóm này có các loài trong họ cá hồng (Lutiannidae), cá trác (Priacanthidae), cá lượng (Nemipleridae), cá khế (Carangidae), cá sạo (Pomadasyidae) , cá căng (Thesaponidae) ... 3. Nhóm cá đáy: gồm các loài cá sống ở đáy, chiếm khoảng 35% số loài, với các đại diện là họ cá nhám hổ (Heterodontidae), cá nhám râu (Orectolobidae), cá đuối (Dasyatidae), cá ó (Myliobatidae), cá bống (Gobiidae), cá bơn (Bothidae, Cynoglosidae, Soleidae) ... 4. Nhóm cá san hô : gồm các loài sống trong các rạn san hô, khoảng 10% số loài đại diện nhóm cá này có các loài trong họ cá bướm (Chaetodontidae), cá thia (Pomacentirdae), cá bàng chài (Labridae), cá mó (Scaridae), cá nóc nhím (Diodontidae) ... Khu hệ cá biển Việt Nam mang tính chất nhiệt đới thể hiện ở cả thành phần loài cũng như đặc tính sinh học, cụ thể là : 1. Thành phần loài đa dạng, song số cá thể trong loài không lớn. 2. Mùa đẻ kéo dài và phân đợt, nhiều loài đẻ quanh năm 3. Cá ăn tạp và bắt mồi quanh năm, không có thời gian nghỉ ăn. 4. Thành phần cá nổi và cá gần đáy nhiều hơn cá đáy. Cá ăn sinh vật nổi chiếm ưu thế hơn cá ăn sinh vật đáy. 5. Cá tầng giữa và gần đáy sống phân tán, không thành đàn lớn, không có loài ưu thế tuyệt đối về số lượng trong đàn. Tuy nhiên , với đặc điểm điều kiện tự nhiên ở vùng biển phía bắc (vịnh Bắc Bộ), khu hệ cá biển ở đây ít nhiều mang sắc thái cận nhiệt đới như : có sự di cư theo mùa của cá biển từ ngoài vào vịnh mùa hè và ra khơi vịnh mùa thu (cá chuồn, cá thu ngừ, cá mập), có sự di chuyển cả theo mùa ở ngay trong vịnh: mùa đông di chuyển xuống phía nam và xuống tầng sâu, mùa hè ngược lại. 3.1.5. Rong biển Về thành phần loài rong biển nước ta cho tới nay đã thống kê được 653 loài, trong đó ngành rong đỏ (Rhodophyta) có tới 301 loài, rồi tới rong nâu (Phanophyta) có 1254 loài, rong lục (Chlorophyta) có 151 loài. ít loài 121 nhất là rong biển nước ta, tuy chưa thật đầy đủ, chủ yếu chỉ mới bao gồm các loài tìm thấy ở vùng biển ven bờ còn chưa có nhiều hiểu biết về rong biển và vùng đảo khơi. Số loài rong biển đã biết ở vùng biển phía nam là 499 loài, nhiều hơn hẳn so với số loài đã biết ở vùng biển phía bắc là 310 loài. Rong biển tập trung nhiều ở vùng triều. Sự phân bố thành phần loài rong biển ở vùng triều trước hết phụ thuộc vào nền đáy, có thể phân biệt hai khu vực phân bố rong biển ở vùng triều liên quan tới tính chất nền đáy. Rong biển trên nền đáy đá, rong biển trên nền đáy đá thường thấy ở vùng triều chân núi đá ven biển, ven đảo, các rạn san hô nơi có sóng lớn. Thành phần loài rong biển ở đây phong phú, đa dạng. Các loài hay gặp là : rong mứt (Porphyra), rong mơ (Sargassum), rong câu (Gracilaria), rong thạch (Gelidium), rong thun thút (Catenella), rong đông (Hypmea), rong gai (Acanthophỉa), rong dù (Acetabulảia), rong cải biển (Ulva), rong lông cứng (Cladophora), rong quạt (Padina), rong nguột (Caulerpa), rong tóc đốt (Chaetomorpha), rong loa (Turbinaria), rong mồng gà (Laurrencia)... Rong biển trên nền đáy mềm, rong biển trên nền đáy mềm thường gặp ở các bãi bồi vùng cửa sông, trong vịnh kín hoặc bờ biển hở trong các đầm nước lợ ven biển. Thành phần loài ở đây nghèo hơn vùng đáy đá, điều kiện ít thuận lợi, ít vật bám, nước luôn luôn bị xáo trộn. Theo tính chất của nền đáy(đầy bùn, bùn cát, cát bùn, thuần cát ...) thành phần loài có thể thay đổi. Các loài rong hay gặp là : Gracilaria, Caulerpa, Enteromorrpha (rong bún), Cladophora, Ectocarpus, Dilophus, Hypnea, Chnoospora (rong lông bao), Cottoniella, Gifordia, Polysiphonia. Ngoài tính chất nền đáy, sự phân bố của rong biển còn thay đổi theo chiều sâu. Tầng trên triều, chỉ có rất ít loài. Tầng triều giữa và triều thấp là nơi tập trung nhiều loài rong biển nhất. Về phân bố địa lý thực vật có sự sai khác giữa khu hệ rong biển Bắc và Nam Việt Nam. ở miền Bắc Việt Nam (khu vực vịnh Bắc Bộ) đã biết 310 loài rong biển (trong đó có 4 loài mới cho khoa học). Trong thành phần loài rong biển, số loài nhiệt đới (40%) và cận nhiệt đới (31,7%) chiếm ưu thế, ngoài ra còn một số loài ôn đới phía bắc và loài phân bố toàn cầu với tỉ lệ thấp hơn. Vùng phân bố Bắc Việt Nam có thể chia thành hai phân vùng liên quan tới đặc điểm điều kiện tự nhiên ở mỗi nơi : phân vùng Móng Cái - Đồ Sơn và phân vùng Đồ Sơn - Vĩnh Linh (Quảng Bình). 122 Khu hệ rong biển miền Nam Việt Nam đã thống kê được 499 loài (có 35 loài mới cho khoa học), k