Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực
tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của
các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội
là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay
vì phải bỏ ra hàng trăm năm để phát triển vượt qua thời kỳ tích luỹ ban
đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây hay gần đây như
Australia chẳng hạn, các nước đi sau có thể mượn sức những nước đi
trước để thực hiện thành công chiến lược rượt đuổi. Rõ ràng có thể tồn tại
khả năng đi xe miễn phí như nhau cho tất cả các nước đi sau. Song vốn
đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả
năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận
dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong việc huy động nguồn lực phát triển
to lớn nói trên.
Bên cạnh đó, vấn đề phát triển nhanh và bền vững được đặt ra đối
với tất cả các quốc gia. Đối với các nước đi sau có điểm xuất phát thấp về
kinh tế, yêu cầu này đặt ra như một đòi hỏi sống còn hoặc là đuổi kịp
vượt lên trước hoặc là tụt lại sau và ngày càng xa rời các cơ hội phát
triển. Việt Nam cũng nằm trong tình huống của những nước đi sau như
thế, khi so sánh các mục tiêu của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang theo đuổi với trình độ thấp nhất thế giới như hiện
nay thì yêu cầu nói trên càng trở nên cấp bách.
Mục tiêu mà Đảng và chính phủ ta đã đề ra trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội đến năm 2010 là: tăng trưởng kinh tế đạt 7,5 %, đến
năm 2010 GDP tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 và đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá. Để đạt được mục tiêu đó thì
một trong những điều kiện tiên quyết là phải có vốn để thực hiện đồng bộ
các vấn đề. Đây là một thách thức lớn đối với một nền kinh tế mà khả
năng tích luỹ nội bộ thấp. Do vậy, chúng ta phải tính đến chuyện huy
động các nguồn vốn từ bên ngoài mà trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài có vai trò hết sức quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển, góp
phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và tạo nguồn
thu cho ngân sách.
Nhận thức về tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong thời kỳ đầu của sự nghiệp CNH,HĐH chính phủ Việt Nam đã liên
tục ban hành những chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Những chính sách đó đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài rất chú ý.
Đến nay, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cam kết và đăng ký
đạt hơn 40 tỷ USD, vốn thực hiện đạt trên 19 tỷ USD.
Tuy nhiên, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới chỉ tập trung chủ
yếu đối với một số ngành công nghiệp và dịch vụ, còn đối với nông
nghiệp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy có tăng lên trong mấy năm
gần đây nhưng còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào nền kinh tế chưa xứng với tiềm năng phát triển của ngành
trong nền kinh tế. GDP do nông nghiệp tạo ta vẫn giữ vị trí hàng đầu, trên
50% giá trị xuất khẩu là nông sản, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn
sống chính dựa vào nông nghiệp. Cho đến nay vốn đăng ký đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào nông nghiệp mới chỉ đạt 2620 triệu USD (bằng 6,5 %
tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài). Vốn thực hiện mới đạt 51,2% đối
với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chính vì vậy làm thế nào để thu hút và sử dụng một cách có hiệu
quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp trở thành một vấn
đề hết sức quan trọng. Xuất phát từ trực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong nông nghiệp Việt Nam và tính cấp thiết của vấn đề này, tôi chọn đề
tài"Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt
Nam thực trạng và giải pháp" cho chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm ba chương sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông
nghiệp
Chương III: Một số giải pháp thu hút và nâng cao hiệu vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp
103 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1864 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài phát triển nghành
nông nghiệp Việt Nam
thực trạng và giải pháp
2
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực
tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của
các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội
là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay
vì phải bỏ ra hàng trăm năm để phát triển vượt qua thời kỳ tích luỹ ban
đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây hay gần đây như
Australia chẳng hạn, các nước đi sau có thể mượn sức những nước đi
trước để thực hiện thành công chiến lược rượt đuổi. Rõ ràng có thể tồn tại
khả năng đi xe miễn phí như nhau cho tất cả các nước đi sau. Song vốn
đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả
năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận
dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong việc huy động nguồn lực phát triển
to lớn nói trên.
Bên cạnh đó, vấn đề phát triển nhanh và bền vững được đặt ra đối
với tất cả các quốc gia. Đối với các nước đi sau có điểm xuất phát thấp về
kinh tế, yêu cầu này đặt ra như một đòi hỏi sống còn hoặc là đuổi kịp
vượt lên trước hoặc là tụt lại sau và ngày càng xa rời các cơ hội phát
triển. Việt Nam cũng nằm trong tình huống của những nước đi sau như
thế, khi so sánh các mục tiêu của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang theo đuổi với trình độ thấp nhất thế giới như hiện
nay thì yêu cầu nói trên càng trở nên cấp bách.
Mục tiêu mà Đảng và chính phủ ta đã đề ra trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội đến năm 2010 là: tăng trưởng kinh tế đạt 7,5 %, đến
năm 2010 GDP tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 và đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá. Để đạt được mục tiêu đó thì
một trong những điều kiện tiên quyết là phải có vốn để thực hiện đồng bộ
các vấn đề. Đây là một thách thức lớn đối với một nền kinh tế mà khả
năng tích luỹ nội bộ thấp. Do vậy, chúng ta phải tính đến chuyện huy
động các nguồn vốn từ bên ngoài mà trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài có vai trò hết sức quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển, góp
phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và tạo nguồn
thu cho ngân sách.
3
Nhận thức về tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong thời kỳ đầu của sự nghiệp CNH,HĐH chính phủ Việt Nam đã liên
tục ban hành những chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Những chính sách đó đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài rất chú ý.
Đến nay, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cam kết và đăng ký
đạt hơn 40 tỷ USD, vốn thực hiện đạt trên 19 tỷ USD.
Tuy nhiên, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới chỉ tập trung chủ
yếu đối với một số ngành công nghiệp và dịch vụ, còn đối với nông
nghiệp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy có tăng lên trong mấy năm
gần đây nhưng còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào nền kinh tế chưa xứng với tiềm năng phát triển của ngành
trong nền kinh tế. GDP do nông nghiệp tạo ta vẫn giữ vị trí hàng đầu, trên
50% giá trị xuất khẩu là nông sản, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn
sống chính dựa vào nông nghiệp. Cho đến nay vốn đăng ký đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào nông nghiệp mới chỉ đạt 2620 triệu USD (bằng 6,5 %
tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài). Vốn thực hiện mới đạt 51,2% đối
với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chính vì vậy làm thế nào để thu hút và sử dụng một cách có hiệu
quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp trở thành một vấn
đề hết sức quan trọng. Xuất phát từ trực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong nông nghiệp Việt Nam và tính cấp thiết của vấn đề này, tôi chọn đề
tài"Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt
Nam thực trạng và giải pháp" cho chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm ba chương sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông
nghiệp
Chương III: Một số giải pháp thu hút và nâng cao hiệu vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp
Hoàn thành chuyên đề thực tập này ngoài sự nỗ lực của bản thân,
em xin chân thành cảm ơn sâu sắc sự hướng dẫn tận tình của cô giáo T.s
Nguyễn Bạch Nguyệt. Vì trình độ và kinh nghiệm còn có hạn, chuyên đề
4
của em không khỏi còn những thiếu sót, em mong cô cùng tất cả các bạn
quan tâm góp ý kiến để hoàn thiện đề tài hơn.
CHƯƠNG I:: NHỮNG VẪN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm, và đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Khái niệm, và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a. Khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là phương thức đầu tư
vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã
hội nhất định.
b. Bản chất: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc
tế được đặc trưng bởi quá trình xuất khẩu tư bản từ nước này sang nước
khác, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đầu tư nước ngoài
được hiểu là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Nhân tố
nước ngoài ở đây không chỉ là sự khác biệt vế quốc tịch hoặc về lãnh thổ
cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư trực tiếp
nước ngoài mà còn thể hiện ở việc tư bản bắt buộc phải vượt qua khỏi
tầm kiểm soát của một quốc gia. Việc di chuyển tư bản này nhằm mục
đích phục vụ kinh doanh tại các nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời lại là
điều kiện để xuất khẩu máy móc vật tư nguyên vật liệu và khai thác tài
nguyên của nước chủ nhà.
1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a. Về kinh tế:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vốn cùng với kỹ thuật, công nghệ,
bí quyết kinh doanh và năng lực Marketing vào nước tiếp nhận .
Chủ đầu tư tiến hành công cuộc đầu tư, tổ chức sản xuất kinh
doanh và sản phẩm làm ra được tiêu thụ ở thị trường nước tiếp
nhận đầu tư hoặc thị trường quốc tế.
Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là các công ty
xuyên quốc gia. Các công ty này chiếm 90% khối lượng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài trên thế giới.
5
Việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài không phát sinh nợ cho
nước nhận đầu tư. Thay cho lãi suất, nước nhận đầu tư được phần
lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả,
bên cạnh đó nước chủ nhà còn có điều kiện để phát triển tiềm năng
trong nước.
b. Về mặt pháp lý:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư vốn của tư nhân do
các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính
khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về
chính trị.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm là: chủ đầu tư nước người
phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo
luật đầu tư của mỗi nước. Ví dụ: luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam quy định tỷ lệ góp vốn tối thiểu của nhà đầu tư nước ngoài là
30% vốn pháp định của dự án, ở các nước khác tỷ lệ này là 20%.
Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả
hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn
pháp định.
Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu chủ
đầu tư nước ngoài góp 100% vốn thì chủ đầu tư nước ngoài điều
hành quản lý toàn bộ mọi hoạt động đầu tư. Chủ đầu tư tham gia
điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỉ lệ góp vốn của mình
theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
1.3. Tính tất yếu khách quan của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Để trở thành một nước công nghiệp hùng mạnh, các nước như Anh
và Australia đã phải mất hàng trăm năm. Trong thế giới hiện đại ngày
nay, các nước đi sau nhất là các nước đang phát triển đã tận dụng ưu thế
của đầu tư trực tiếp nước ngoài để đi tắt đón đầu, rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá . Chính vì vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài càng
ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trong thế giới hiện đại ngày nay.
6
a. Tính tất yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thế giới hiện đại
Trong thế kỷ XIX, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên
mạnh mẽ, các nước tư bản lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư
bản khổng lồ. Khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mực
độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá
trình phát triển của sức sản xuất xã hội đến độ đã vượt ra khỏi khuân khổ
chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên toàn thế
giới. Việc tích tụ, tập trung và xuất khẩu tư bản là một hiện tượng kinh tế
mang tính tất yếu khách quan của nền kinh tế hiện đại.
Sau mỗi chu kỳ kinh tế, nền kinh tế của các nước phát triển lại rơi
vào một cuộc suy thoái kinh tế, chính lúc này để vượt qua giai đoạn
khủng hoảng tạo ra những điều kiện phát triển đòi hỏi phải đổi mới tư bản
cố định. Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài, các nước công nghiệp
phát triển có thể chuyển máy móc thiết bị cần thay thế sang các nước kém
phát triển hơn và thu hồi được một phần giá trị để bù đắp những khoản
chi phí khổng lồ cho việc mua sắm máy móc thiết bị. Bên cạnh đó những
thành tựu khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ và nhanh
chóng đi vào ứng dụng trong sản xuất và đời sống, các chu kỳ kinh tế
ngày càng rút ngắn lại vì vậy yêu cầu đổi mới máy móc thiết bị ngày càng
cấp bách hơn. Do đó các nước tiên tiến tất yếu phải tìm nơi tiêu thụ các
công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công
nghệ kỹ thuật mới.
Nguyên tắc lợi thế so sánh mà P.Vernon đã chứng minh rằng
không có nước nào mạnh toàn diện và cũng không có nước nào yếu toàn
diện. Nếu chúng ta biết hợp tác thì sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp
cho tất cả các nước. Qua hàm sản xuất: Y = f(K,L); Giáo sư P. Vernon
gợi ý rằng với các nước tư bản phát triển nên tận dụng lợi thế so sánh sao
cho tỷ lệ K/L ngày càng cao. Với các nước đang phát triển nên sử dụng
lợi thế so sánh với những mặt hàng có hàm lượng lao động cao. Theo
nguyên tắc này cho phép hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài lợi dụng
được những ưu thế tương đối của mỗi nước, đem lại lợi ích cho cả hai
bên, bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư. Các doanh nghiệp nước ngoài có
7
lợi thế so sánh về vốn và kỹ thuật, còn các nước nhận đầu tư có lợi thế về
lao động dồi dào giá rẻ... Do đó để khai thác được lợi thế so sánh này tất
yếu phải có quan hệ kinh tế quốc tế mà trong đó đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một nhân tố quan trọng.
Nhà kinh tế học P. Samuelson cho rằng, để phát triển kinh tế các
nước đang phát triển phải có biện pháp thu hút được FDI. Trong lý thuyết
"cái vòng luẩn quẩn" và "cú hích" từ bên ngoài, Samuelson cho rằng: "Đa
số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, mức thu nhập thấp, chỉ đủ
sống ở mức tối thiểu, do đó khả năng tích luỹ vốn hạn chế. Những nước
dẫn đầu trong cuộc chạy đua tăng trưởng phải đầu tư ít nhất 20% sản
lượng vào việc tạo vốn. Trái lại, những nước nông nghiệp nghèo nhất
thường chỉ có thể tiết kiệm được 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, phần
nhiều trong khoản tiết kiệm nhỏ bé này phải dùng để cung cấp nhà cửa và
những công cụ giản đơn cho số dân đang tăng lên. Phần còn lại hầu như
rất ít cho phát triển".
Mặt khác, theo Samuelson, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân
lực bị hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp, tài nguyên thiên nhiên khan
hiếm, kỹ thuật lạc hậu và gặp trở ngại trong việc kết hợp chúng. Do vậy,
ở nhiều nước đang phát triển ngày càng khó khăn và càng tăng "cái vòng
luẩn quẩn".
Samuelson cho rằng: "Để phát triển kinh tế phải có "cú hích" từ
bên ngoài nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn". Đó là phải có đầu tư của
nước ngoài vào các nước đang phát triển. Theo ông, "nếu có quá nhiều
trở ngại như vậy đối với việc đi tìm tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại
sao không dựa nhiều hơn vào các nguồn bên ngoài? Chẳng phải lý thuyết
kinh tế đã từng nói với chúng ta rằng, một nước giàu sau khi đã hút hết
những dự án đầu tư có lợi nhuận cao cho mình, cũng có thể làm lợi cho
chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư những dự án lợi nhuận
cao ra nước ngoài đó sao?...
Ngày nay trên thế giới xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế xã
hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới, nó đã lôi kéo tất cả các nước và
các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Xu hướng
này là một xu hướng tất yếu của lịch sử, nó là sản phẩm của quá trình
8
phân công lao động mở rộng trên phạm vi toàn thế giới. Trong xu thế
này, chính sách biệt lập"đóng cửa"là không thể tồn tài và chính sách đó
chỉ làm kìm hãm quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Một quốc gia không
thể tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu của khoa học kỹ thuật đã
kéo con người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới
những tác động quốc tế khác buộc các nước phải mở cửa với bên ngoài.
b. Đầu tư trực tiếp nước ngoài xu thế tất yếu trong quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế nước ta
Việt Nam đã trải qua cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ
lâu dài, và cho đến khi thống nhất đất nước, nền kinh tế Việt Nam về cơ
bản vẫn là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ, đời sống
nhân dân khó khăn, thu nhập bình quân đầu người vào loại thấp nhất thế
giới. Chúng ta đang rất cần nhiều thứ cho việc khôi phục và phát triển
kinh tế, cải thiện đời sống người lao động. Những năm đầu khi thống nhất
đất nước viện trợ của Liên X"và xã hội chủ nghĩa là chủ yếu. Đầu những
năm 90 phe xã hội chủ nghĩa tan rã, Việt Nam mất nguồn viện trợ lớn lao
này. Nền kinh tế của chúng ta lâm vào tình trạng khủng hoảng, sản xuất
đình trệ, hàng hoá khan hiếm lạm phát tăng mạnh đến 3 con số, tình trạng
không có việc làm trở nên trầm trọng, đời sống nhân dân đã khó khăn lại
càng khó khăn hơn. Để thoát khỏi tình trạng này việc tận dụng thế mạnh
của hợp tác quốc tế đối với việc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước là
một yêu cầu tất yếu. Tận dụng lợi thế của đầu tư trực tiếp nước ngoài cho
phép chúng ta đáp ứng được phần nào nhu cầu đầu tư và đáp ứng nhu cầu
ngoại tệ của đất nước. Việc tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế giúp
chúng ta từng bước khôi phục và phát triển kinh tế, đưa đất nước tránh
khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Đồng thời đây cũng là cơ hội để các
nhà đầu tư nước ngoài khai thác chiếm lĩnh lợi thế so sánh của nước ta và
chuyển giao công nghệ hạng 2 từ nước họ sang. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một xu thế không thể chối cãi cũng là con đường ngắn nhất, dễ
dàng nhất để nước ta có thể đẩy nhanh phát triển nền kinh tế của mình.
Xu hướng quốc tế hoá đời sống xã hội, kết quả của quá trình phân công
lao động trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả các nước các vùng
9
lãnh thổ tững bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó nếu
chúng ta"đóng cửa"nền kinh tế thì chỉ kìm hãm sự phát triển kinh tế mà
thôi. Việt Nam chúng ta không thể không hợp tác làm ăn, buôn bán với
nước ngoài.Vì khoa học kỹ thuật ngày nay đã kéo loài người xích lại với
nhau hơn buộc chúng ta phải mở cửa hợp tác với bên ngoài.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố
từ bên trong nước chủ nhà cũng như các yếu tố từ bên ngoài:
a. Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên trong của nền kinh tế bao gồm tổng hoà các nhân
tố chính trị, kinh tế-xã hội và điều kiện tự nhiên.
Thứ nhất: Sự ổn định chính trị tạo môi trường thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế của đất nước. Nền chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện để các
nhà đầu tư mở rộng kinh doanh. Đây là cơ sở để phát triển mạnh các
ngành trong nền kinh tế. đồng thời, trình độ của nền kinh tế đặc biệt là tốc
độ tăng trưởng kinh tế quốc dân cao, thu nhập bình quân đầu người được
cải thiện là yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư di chuyển vốn, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý vào các ngành có khả năng sinh lợi cao để thu lợi ích.
Thứ hai: Nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng trong sự phát triển
và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với dân số trẻ và có học vấn
khá, dễ tiếp thu khoa học công nghệ, lao động của Việt Nam, nhất là lao
động đã qua đào tạo thực sự là một nguồn lực to lớn để phát triển và phát
huy nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ ba: Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố quan
trọng cho sự hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn tài nguyên
phong phú với trữ lượng lớn, chất lượng cao sẽ là yếu tố thu hút mạnh mẽ
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, ví dụ: (như dầu mỏ ở Iran, ả rập
xê út, Cô-oet...).
Thứ tư: Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định như tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao và ổn định lâu bền, kiềm chế được lạm phát, ổn định giá trị
nội tệ và tỷ giá hối đoái sẽ là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến sản xuất
kinh doanh và lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy nó
10
ảnh hưởng rất lớn đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước
chủ nhà.
Thứ năm: Khuân khổ thể chế và pháp lý thuận tiện như nền kinh tế
mở, hướng xuất khẩu, đồng tiền có khả năng chuyển đổi dễ ràng, chương
trình tư nhân hoá quy mô lớn, tham gia các khối thương mại khu vực và
thế giới, cơ sở hạ tầng vật chất thuận lợi và hiện đại, hoàn thuế quan nhập
khẩu, có các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài... là các yếu tố
ảnh hưởng lớn đến thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ sáu: Bên cạnh các yếu tố trên đây, chính sách bảo hộ của
chính phủ, chính sách thay thế nhập khẩu, chính sách chống độc quyền,
chính sách ngoại thương (thuế quan, hạn ngạch...) của nước chủ nhà đôi
khi cũng khiến các nhà đầu tư nước ngoài tìm cách đặt cơ sở sản xuất
kinh doanh ngay tại nước chủ nhà để tránh những chính sách này của
nước chủ nhà.
b. Các nhân tố bên ngoài
Thứ nhất: Tình hình kinh tế xã hội, chính trị của nước đi đầu tư,
chính sách đầu tư ra nước ngoài của nước đi đầu tư (như chính sách miễn
thuế sản phẩm chế biến tại một số cơ sở chế biến của họ tại nước ngoài)
ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kinh nghiệm của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vừa qua cho ta thấy rõ vấn đề này.
Thứ hai: Quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư làm cho các
công ty xuyên quốc gia phải cạnh tranh gay gắt với nhau trong việc tìm
kiếm thị trường mới. Do vậy đây chính là động lực để các nhà đầu tư
nước ngoài đi đầu tư ở nước khác.
Thứ ba: Bên cạnh những yếu tố trên việc các nhà đầu tư nước
ngoài phân tán rủi ro bằng cách đầu tư tại nhiều địa điểm khác nhau ở
nước ngoài cũng là yếu tố để các nhà đầu tư đầu tư ra nước ngoài.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Trong thực tiễn và theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt
Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện dưới các dạng sau:
11
2.1. Doanh nghiệp liên doanh.
Đây là doanh nghiệp do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng
góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp
vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu
tư. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia và với doanh
nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn của mình trong vốn pháp định.
Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài hoặc của các bên nước ngoài do các
bên liên doanh thoả thuận. Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam,
vốn góp của bên nước ngoài không thấp hơn 30% vốn pháp định của
doanh nghiệp liên doanh, và trong quá trình hoạt động không được giảm
vốn pháp định. Đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng tại các vùng
có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, các dự án đầu tư vào miền núi,
vùng sâu, vùng xa các dự án trồng rừng tỷ lệ này có thể thấp đến 20%.
Nhưng phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận.
2.2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp