Thông qua hoạt động của kế toán Ngân hàng mang tính chất tổng hợp, 
vì số liệu của kế toán ngân hàng không chỉ phản ánh tổng hợp các mặt hoạt 
động của ngân hàng mà còn phản ánh đại bộ phận hoạt động của nền kinh tế. 
Xuất phát từ vị trí, vaitrò quan trọng của công tác kế toán cho vay. Trong 
những năm qua ngành Ngân hàng đã tập trung cải tiến, đưa công nghệ mới 
hiện đại như vi tính nối mạng vào công tác kế toán nên đã đem lại kết quả tốt, 
góp phần vào sự phát triển và hội nhập của ngành Ngân hàng cũng như nền 
kinh tế đất nước.
Hiện nay các Ngân hàng từng bước đổi mới nghiệp vụ tín dụng để 
hoàn thiện hơn nữa mặt nghiệp vụ này nhằm đem lại hiệu quả cao cho Ngân 
hàng.Tuy nhiên để thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng thì phải tổ chức tốt nghiệp 
vụ kế toán cho vay, bởi lẽ kế toán cho vay làm nhiệm vụ ghi chép, phản ánh 
toàn bộ kế toán cho vay, thu nợ, theo dõi dư nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng.Xuất 
phát từ tầm quan trọng của kế toán cho vay nên trong những năm đổi mới, 
Nhà nước nói chung cũng như ngành Ngân hàng nói riêng đã tập trung giải 
quyết, hoàn thiện chế độ kế toán cho vay đối với nền kinh tế nên kế toán cho 
vay đã thu được những kết quả bước đầu.
Tuy nhiên kế toán cho vay nói chung và kế toán cho vay hộ sản xuất 
nói riêng hiện nay còn một số tồn tại cần phải giải quyết.Qua nghiên cứu thấy 
rõ được tầm quan trọng của công tác kế toán cho vay, để phản ánh kết quả 
trong thời gian học tập vừa qua tôi đã lựa chọn đề tài :"Một số vấn đề về kế 
toán cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Ninh Giang tỉnh Hải 
Dương"để viết bản chuyên đề tốt nghiệp. 
Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm các phần cơ bản 
như sau:
Chương I: Những lý luận cơ bản về tín dụng Ngân hàng và kế toán 
cho vay trong hoạt động Ngân hàng.
Chương II: Tình hình kế toán cho vay tại Ngân hàng nông nghiệp và 
phát triển nông thôn huyện Ninh Giang-Hải Dương.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho 
vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp huyện Ninh Giang-Hải 
Dương
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 59 trang
59 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2088 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số vấn đề về kế toán cho vay hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP 
KHOA 
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG 
Đề tài: :"Một số vấn đề về kế toán cho vay hộ sản xuất tại 
NHNo & PTNT huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương" 
Sinh viên: HÀ THỊ NHUNG 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
lời nói đầu 
Qua hơn 50 năm xây dựng trưởng thành và phát triển, ngành Ngân 
hàng luôn luôn là một ngành quản lý tổng hợp, với chức năng hoạt động là 
trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán, ngành Ngân hàng đã thực hiện tốt 
chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, thực sự trở thành công cụ thúc 
đẩy nền kinh tế liên tục phát triển, góp phần đẩy lùi lạm phát, thực hiện chính 
sách xoá đói giảm nghèo và thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá đất nước. 
Thông qua hoạt động của kế toán Ngân hàng mang tính chất tổng hợp, 
vì số liệu của kế toán ngân hàng không chỉ phản ánh tổng hợp các mặt hoạt 
động của ngân hàng mà còn phản ánh đại bộ phận hoạt động của nền kinh tế. 
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của công tác kế toán cho vay. Trong 
những năm qua ngành Ngân hàng đã tập trung cải tiến, đưa công nghệ mới 
hiện đại như vi tính nối mạng vào công tác kế toán nên đã đem lại kết quả tốt, 
góp phần vào sự phát triển và hội nhập của ngành Ngân hàng cũng như nền 
kinh tế đất nước. 
Hiện nay các Ngân hàng từng bước đổi mới nghiệp vụ tín dụng để 
hoàn thiện hơn nữa mặt nghiệp vụ này nhằm đem lại hiệu quả cao cho Ngân 
hàng.Tuy nhiên để thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng thì phải tổ chức tốt nghiệp 
vụ kế toán cho vay, bởi lẽ kế toán cho vay làm nhiệm vụ ghi chép, phản ánh 
toàn bộ kế toán cho vay, thu nợ, theo dõi dư nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng.Xuất 
phát từ tầm quan trọng của kế toán cho vay nên trong những năm đổi mới, 
Nhà nước nói chung cũng như ngành Ngân hàng nói riêng đã tập trung giải 
quyết, hoàn thiện chế độ kế toán cho vay đối với nền kinh tế nên kế toán cho 
vay đã thu được những kết quả bước đầu. 
Tuy nhiên kế toán cho vay nói chung và kế toán cho vay hộ sản xuất 
nói riêng hiện nay còn một số tồn tại cần phải giải quyết.Qua nghiên cứu thấy 
rõ được tầm quan trọng của công tác kế toán cho vay, để phản ánh kết quả 
trong thời gian học tập vừa qua tôi đã lựa chọn đề tài :"Một số vấn đề về kế 
toán cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Ninh Giang tỉnh Hải 
Dương"để viết bản chuyên đề tốt nghiệp. 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm các phần cơ bản 
như sau: 
Chương I: Những lý luận cơ bản về tín dụng Ngân hàng và kế toán 
cho vay trong hoạt động Ngân hàng. 
Chương II: Tình hình kế toán cho vay tại Ngân hàng nông nghiệp và 
phát triển nông thôn huyện Ninh Giang-Hải Dương. 
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho 
vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp huyện Ninh Giang- Hải 
Dương 
Do điều kiện thời gian thực tập ngắn, kinh nghiệm nghiên cứu của bản 
thân còn hạn chế, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận 
được sự góp ý của Thầy, Cô và các cô chú trong ban lãnh đạo Ngân hàng để 
đề tài được hoàn thiện hơn. 
 Xin chân thành cảm ơn ! 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
chương I 
những lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng và kế toán cho vay 
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 
i. tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế 
quốc dân 
1. Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng 
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, xuất phát từ nhu 
cầu đi vay và cho vay giữa người thiếu vốn và người thừa vốn trong cùng một 
thời điểm đã hình thành nên quan hệ vay mượn lẫn nhau trong xã hội và trên 
cơ sở đó hoạt động tín dụng ra đời. 
Khái niệm: Tín dụng Ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một 
lượng giá trị từ người sở hữu sang cho người sử dụng, sau một thời hạn nhất 
định được quay lại người sở hữu với một giá trị lớn hơn ban đầu gồm cả gốc 
và lãi. 
Tín dụng có nghĩa là sự tín nhiệm, tin tưởng, là phạm trù kinh tế có 
sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có hoạt động tín dụng. 
Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng và khách hàng có hoàn 
trả. Tín dụng Ngân hàng là tín dụng bằng tiền được thể hiện một bên là Ngân 
hàng với một bên là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, các thành 
phần kinh tế. Trong đó, Ngân hàng đóng vai trò trung gian, vừa là người đi 
vay vừa là người cho vay. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là đi vay để 
cho vay. 
Trong nền kinh tế thị trường vốn bằng tiền của các đơn vị, các tổ chức 
kinh tế không giống nhau về cả số lượng và thời gian. Trong cùng một thời 
gian, đơn vị này thiếu vốn sản xuất kinh doanh nhưng đơn vị khác lại thừa 
vốn không sử dụng hết. Trong khi đó các đơn vị hoạt động lại không phụ 
thuộc vào nhau. Do vậy sự thiếu vốn của đơn vị này và sự thừa vốn của đơn 
vị kia cùng một thời gian đều có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động sản xuất 
kinh doanh.Nếu không có sự điều hoà vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu thì nền 
kinh tế không thể phát triển được. 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
Do vậy cần thiết phải có một tổ chức đứng ra làm nhiệm vụ điều hoà 
vốn trong nền kinh tế. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng 
nói chung và tín dụng Ngân hàng nói riêng. 
Nền kinh tế xã hội phát triển được từ giai đoạn này sang giai đoạn 
khác và cho đến ngày nay cũng có phần đóng góp vai trò đáng kể của ngành 
Ngân hàng nói chung và tín dụng Ngân hàng nói riêng 
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng chủ yếu là đi vay để cho vay, 
huy động mọi khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư với lãi suất quy định của Nhà 
nước để cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong xã hội 
có nhu cầu vay vốn với lãi suất cao hơn lãi suất huy động. Đây là nghiệp vụ 
cơ bản và quan trọng của Ngân hàng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển 
của hệ thống Ngân hàng. 
Trong cơ chế thị trường, vốn cho vay là tài sản chiếm tỷ trọng cao 
nhất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Vì vậy tín dụng Ngân hàng 
có một vị trí hết sức quan trọng đối với bản thân Ngân hàng. 
Cùng với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá, vai trò của tín 
dụng Ngân hàng cũng phát triển và hoàn thiện. Tín dụng Ngân hàng có một 
vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế xã hội. 
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân. 
Đứng trên góc độ kinh tế học, tín dụng Ngân hàng được hiểu như là 
quan hệ kinh tế về sử dụng vốn tạm thời giữa Ngân hàng với các tổ chức, cá 
nhân theo nguyên tắc hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm, làm thoả mãn nhu 
cầu về vốn của các doanh nghệp và cá nhân trong kinh doanh.Nghĩa là, trong 
nền kinh tế có nhiều người có nguồn vốn nhàn rỗi, muốn đầu tư cho người 
khác vay với mục đích vừa có lợi nhuận, vừa đảm bảo an toàn đồng vốn.Bên 
cạnh đó lại có những người đầu tư trực tiếp vào khâu sản xuất kinh doanh cần 
có vốn để sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận.Họ rất muốn vay vốn từ 
những người tiết kiệm với mức chi phí thấp nhất.Từ những yêu cầu đó mà các 
tổ chức tín dụng đã xuất hiện làm trung gian để tập trung vốn tạm thời nhàn 
rỗi, rồi trên cơ sở vốn đó sẽ phân phối lại cho người cần vốn, quan hệ này làm 
nảy sinh tín dụng ngân hàng.Như vậy, sự xuất hiện của tín dụng ngân hàng là 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
hết sức cần thiết và có vai trò to lớn trong việc phục vụ phát triển kinh tế, nó 
thể hiện như sau : 
2.1 - Tín dụng Ngân hàng góp phần thu hút số tiền nhàn rỗi trong xã 
hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: 
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng là một hoạt động 
kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng Thương mại. Để thực hiện quá trình kinh 
doanh, Ngân hàng phải có nguồn vốn và trên cơ sở nguồn vốn đó để đáp ứng 
nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. 
Nói cách khác Ngân hàng phải thực sự trở thành người đi vay để cho 
vay. Điều này là một thực tế khách quan. 
Mặt khác, trong nền kinh tế thường xuyên xuất hiện những nguồn vốn 
bằng tiền tạm thời chưa sử dụng thuộc các thành phần kinh tế. Đồng thời, ở 
các thành phần kinh tế khác lại xuất hiện, hiện tượng thiếu vốn tạm thời cần 
được giải quyết. Sự tham gia của tín dụng Ngân hàng được coi như một công 
cụ để giải quyết mâu thuẫn trên đây về cung - cầu vốn tiền tệ như vậy, vốn 
tiền tệ trong nền kinh tế có điều kiện mang đầy đủ nội dung kinh tế của phạm 
trù tư bản hoá giá trị thặng dư. Lợi tức đi vay và cho vay của Ngân hàng luôn 
luôn là công cụ điều chỉnh quan hệ cung - cầu vốn tín dụng. Gắn liền với nền 
kinh tế thị trường là kinh doanh và lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh chủ yếu 
của Ngân hàng là đi vay để cho vay và như vậy nếu xảy ra điều rủi ro trong 
kinh doanh của doanh nghiệp, các thành phần kinh tế sẽ dẫn đến rủi ro của 
Ngân hàng, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán. 
Chính vì lẽ đó mà trong nền kinh tế thị trường, mỗi Ngân hàng trong 
môi trường cạnh tranh phải dựa vào nghệ thuật quản trị kinh doanh vào việc 
đổi mới công nghệ và nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng, thông qua hoạt động 
Marketting Ngân hàng và việc nhanh chóng sử dụng thành tựu khoa học kỹ 
thuật... nhằm thu hút tối đa nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế để thực 
hiện kinh doanh đáp ứng yêu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế, tạo lợi nhuận 
cho Ngân hàng. 
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các chính sách tài chính tiền tệ, 
sự hoạt động của thị trường tài chính, thị trường vốn, thị trường tiền tệ... tín 
dụng ngân hàng góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
vốn. Điều đó vừa làm tăng trưởng khả năng tích luỹ tư bản (trong đó phần lợi 
nhuận) của các ngân hàng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng tín dụng, tăng 
trưởng kinh tế làm cho hệ thống Ngân hàng ngày càng lớn mạnh. 
2.2 - Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá 
trình mở rộng quan hệ lưu thông hàng hoá quốc tế: 
Ngày nay, trong mối quan hệ kinh tế, sự hợp tác bình đẳng đôi bên 
cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và khu vực đang được phát triển rất đa 
dạng cả về nội dung và hình thức, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là nhân 
tố hết sức quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển của mỗi nước, nhất là các 
nước đang phát triển như Việt Nam. 
Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là 
lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế thông dụng. Thông qua quá trình nhận và cho 
vay tài trợ xuất nhập khẩu của các nước. Cấp tín dụng cũng như các tổ chức 
tín dụng, cùng với sự tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán quốc tế, tín 
dụng ngân hàng đã làm tăng mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước, đồng thời 
thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy tín dụng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho 
các nhà đầu tư và kinh doanh xuất khẩu hàng hoá. 
Gần đây với chủ trương nền kinh tế nhiều thành phần, với việc thực 
hiện hệ thống ngân hàng hai cấp, với môi trường pháp luật ngày càng hoàn 
thiện và đi vào đời sống kinh tế - xã hội và nhất là từ khi có luật Ngân hàng ra 
đời, vai trò của tín dụng ngân hàng đang phát triển mạnh mẽ hơn nhằm góp 
phần tích cực vào mối quan hệ kinh tế giữa nước ta và các nước trên thế giới. 
2.3 - Tín dụng Ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát 
triển sôi động thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: 
Trong nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ là công cụ kinh tế - xã hội. Trong 
lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, mọi chu kỳ đều bắt đầu 
bằng tiền tệ và kết thúc bằng khối lượng tiền tệ lớn hơn, tạo điều kiện để tái 
mở rộng hoạt động. 
Trong chu trình này, tăng nhanh vòng quay vốn tiền tệ là một trong 
các yếu tố quyết định thành công trong sản xuất kinh doanh. Để rút ngắn thời 
gian nhằm tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải chủ động 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như: ứng dụng những thành tựu khoa 
học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hoàn thiện nghệ thuật quản trị kinh doanh, 
tìm kiếm thị trường mới... những việc làm này đòi hỏi một khối lượng lớn về 
vốn, tín dụng Ngân hàng sẽ là người đáp ứng nhu cầu đó. 
Những quan hệ tín dụng nảy sinh việc vay vốn phải được hoàn trả đầy 
đủ với một khoản lãi kèm theo (theo lãi suất quy định), trong thời hạn thoả 
thuận đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. 
Trường hợp nguyên tắc tín dụng trên đây bị vi phạm tổ chức kinh tế 
phải chịu phạt lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất thông thường hoặc bị tước 
quyền vay vốn hoặc thanh lý tài sản đã thế chấp để trả nợ Ngân hàng. 
Khi vay vốn các chủ thể kinh doanh phải tìm mọi biện pháp để tăng 
nhanh vòng quay vốn, kinh doanh có lãi, thu hồi vốn để trả nợ và lãi vay 
Ngân hàng đúng hạn. 
2.4 - Tín dụng Ngân hàng với việc điều chỉnh chiến lược kinh tế, 
góp phần chống lạm phát tiền tệ: 
Nền kinh tế hàng hoá luôn luôn chuyển động theo hai chiều hướng: 
Phát triển theo nhịp độ tăng trưởng hoặc giảm sút theo quy luật lạm phát. Cả 
hai trường hợp đó đều có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. 
Tín dụng ngân hàng tạo nguồn vốn từ huy động các đồng tiền nhàn rỗi 
trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số giá cả 
đánh giá hàng hoá để thu hút được nguồn vốn đủ lớn cho việc đầu tư vào các 
công trình trọng điểm mà chiến lược kinh tế đã đề ra. Nếu không dùng công 
cụ tín dụng ngân hàng để huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới 
các hình thức thì có lúc Nhà nước phải huy động trái phiếu, kỳ phiếu, thậm trí 
phải phát hành giấy bạc. 
Hình thức huy động vốn bằng nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng có ý 
nghĩa kinh tế to lớn nó không làm tăng thêm khối lượng tiền lưu thông nên 
không ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ và giá cả. Ngược lại, nếu Nhà nước 
phát hành tiền giấy cho ngân sách dù có đưa vào đầu tư phát triển các chương 
trình kinh tế mang tính chiến lược cũng dẫn đến tăng khối lượng tiền tệ trong 
lưu thông, gây lên lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và đời sống xã hội. 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
Trong thời gian qua trọng tâm của công tác tín dụng là tích cực huy 
động vốn để cho vay. Theo định hướng của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước 
Việt Nam là: "Ngân hàng phải đi vay để cho vay". Tập trung vốn vào các 
công trình trọng điểm, các ngành sản xuất như: Nông nghiệp, sản xuất hàng 
hoá xuất khẩu... Ngân hàng cũng như Kho bạc Nhà nước tích cực đa dạng hoá 
các hình thức huy động vốn, chính vì vậy đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp 
phát triển kinh tế đất nước. 
Như vậy tín dụng Ngân hàng không chỉ là đòn bẩy kinh tế mà còn là 
công cụ để Nhà nước điều tiết sản xuất, điều chỉnh chiến lược kinh tế, phân 
công lao động xã hội, tiết kiệm phát hành tiền vào lưu thông, sử dụng có hiệu 
quả vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, góp phần kiềm chế lạm pháp, 
ổn định sức mua của đồng tiền. Rõ ràng thông qua vai trò tín dụng với hoạt 
động của các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng theo cơ chế thị 
trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, tín dụng ngân hàng đã thúc đẩy 
tăng trưởng kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát. 
Thông qua tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị, 
các tổ chức kinh tế, các cá nhân có vốn sản xuất kinh doanh thu được hiệu 
quả, góp phần phát triển nền kinh tế xã hội. 
Đối với Ngân hàng tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản 
quan trọng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nhằm bổ sung vốn cho các 
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội để sản xuất kinh 
doanh. Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của Ngân hàng thương mại. 
ii. Vai trò, nhiệm vụ của Kế TOán cho vay. 
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản trong hoạt 
động kinh doanh của Ngân hàng nhằm bổ sung vốn cho các đơn vị, tổ chức 
kinh tế, các doanh nghiệp và cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. 
Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của Ngân hàng thương mại, nó quyết định 
sự sống còn của Ngân hàng thương mại nó quyết định việc mở rộng hay thu 
hẹp chức năng trung gian tín dụng.Từ đó quyết định đến phạm vi, quy mô 
hoạt động của một ngân hàng thương mại và cũng là nghiệp vụ chiếm tỉ trọng 
lớn nhất trong tổng tài sản có của ngân hàng. Đối với nền kinh tế nó thúc đẩy 
sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, tăng tốc độ lưu thông tiền tệ. 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
1.Vai trò của kế toán cho vay 
- Kế toán cho vay giữ một vị trí quan trọng trong toàn bộ nghiệp vụ kế 
toán của Ngân hàng, vì thế kế toán cho vay tham gia trực tiếp vào quá trình 
cho vay vốn, nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 
- Thông qua số liệu của kế toán cho vay, Lãnh đạo ngân hàng biết được 
tình hình sử dụng vốn, sự biến động vốn hàng ngày. Từ đó, làm tham mưu 
cho lãnh đạo điều hành hoạt động tín dung của Ngân hàng một cách nhịp 
nhàng, đồng bộ, kịp thời để có chính sách phù hợp cho việc quản trị kinh 
doanh của Ngân hàng như mục tiêu đề ra: an toàn, lợi nhuận, và lành mạnh 
trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 
- Kế toán cho vay được xác định là một bộ phận kế toán rất quan trọng 
bởi kế toán cho vay phục vụ và hỗ trợ đắc lực cho nghiệp vụ tín dụng nó 
quyết định sự tồn tại của các Ngân hàng thương mại. 
 - Đứng ở góc độ kế toán khi thu nợ, thu lãi kế toán cho vay đã giúp cho 
Ngân hàng thu nợ gốc, lãi đầy đủ, chính xác, kịp thời. 
- Thông qua kế toán cho vay, Ngân hàng cũng như bạn hàng của doanh 
nghiệp đánh giá được khả năng hấp thụ của doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu 
quả không? Để từ đó đánh giá xu thế vận động của doanh nghiệp trên thị 
trường, giúp cho ngân hàng và bạn hàng của các doanh nghiệp có chiến lược 
đầu tư phù hợp, có hiệu quả. 
- Kế toán cho vay là công cụ để đảm bảo an toàn tài khoản vốn vay của 
Ngân hàng, đồng thời hạn chế rủi ro, góp phần ổn định nguồn thu nhập của 
Ngân hàng. Thông qua việc ghi chép quá trình cho vay, thu nợ, theo dõi kỳ 
hạn nợ hàng ngày, lưu hồ sơ vay vốn... thể hiện kế toán cho vay bảo vệ an 
toàn một khối lượng tài sản lớn của bản thân Ngân hàng và khách hàng. 
2. Nhiệm vụ của kế toán cho vay 
- Xác lập chứng từ kế toán cho vay một cách hợp lệ, hợp pháp nhằm 
tạo cơ sở hành lang pháp lý giữa Ngân hàng và khách hàng. 
- Mở đầy đủ các loại sổ sách (nội ngoại bảng) để hạch toán ghi chép, 
phản ánh một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác toàn bộ các khoản cho vay, thu 
nợ, theo dõi kỳ hạn nợ để thu nợ và hỗ trợ thu nợ kịp thời các món vay đến 
hạn, tính thu lãi đúng lãi suất, đúng thời gian quy định, theo dõi dư nợ thuộc 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
Hµ ThÞ Nhung 
nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đó giám sát chặt 
chẽ quá trình sử dụng tiền vay và tổ chức quản lý lưu trữ hồ sơ theo qui định 
đảm bảo an toàn tài sản của Ngân hàng. 
- Kế toán cho vay phối hợp với bộ phận tín dụng quản lý các khoản cho 
vay đem lại hiệu quả cao của mỗi món vay cụ thể: kế toán cho vay cung cấp 
thông tin chính xác, kịp thời về số liệu những món vay đã quá hạn, sắp đến 
hạn để cán bộ tín dụng có kế hoạch đôn đốc thu nợ kịp thời, đồng thời cung 
cấp cho Lãnh đạo quản lý, điều hành có hiệu quả. 
-Như vậy, kế toán cho vay cùng với các nghiệp vụ kế toán Ngân hàng 
khác thông qua các hoạt động của mình giúp cho Ngân hàng vừa thực hiện 
được chức năng kinh doanh, vừa cung ứng vốn cho nền kinh tế, với vai trò 
quan trọng đó, hệ thống kế toán Ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói 
riêng cần phải được hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của 
ngành Ngân hàng và nền kinh tế thị trường. 
III. các phương thức cho vay, chứng từ tài khoản kế toán cho vay, thu nợ 
1.Các phương thức cho vay: 
Theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống 
đốc Ngân hàng Nhà nước: Có 9 phương thức cho vay. 
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng của từng khoản vay của khách hàng và 
khả năng kiểm tra, giám sát của Ngân hàng, NHNo nơi cho vay thoả thuận với 
khách hàng vay về việc lựa chọn phương thức cho vay sau đây: 
1.1 -Phương thức cho vay theo từng lần (theo món): 
áp dụng phương thức tín dụng cho vay từng lần, khách hàng phải 
lập giấy đề nghị vay vốn theo từng lần, nộp vào N