Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, là 
một đơn vị hạch toán độc lập, tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh để tạo 
ra các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã 
hội nhằm thực hiện các mục tiêu về lợi nhuận. Tối đa hoá lợi nhuận là kim 
chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần 
phải có những quyết sách, chiến lược phù hợp, kịp thời đối với cáchoạt động 
kinh tế của mình. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường đa thành phần, nếu 
chỉ dựa vào khả năng của mình và bỏ qua sự hỗ trợ của các nguồn lực bên 
ngoài, doanh nghiệp khó có thể đứng vững và phát triển được.
Phân tích tình hình tài chính là một công việc thường xuyên và vô cùng 
cần thiết không những đối với chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn cần thiết đối 
với tất cả các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ về kinh tế và 
pháp lý với doanh nghiệp. Đánh giá được đúng thực trạng tài chính, ch ủ 
doanh nghiệp sẽ đưa ra được các quyết định kinh tế thích hợp, sử dụng một 
cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và các nguồn lực; Nhà đầu tư có quyết định 
đúng đắn với sự lựa chọn đầu tư của mình; các chủ nợ được đảm bảo về khả 
năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản cho vay; Nhà cung cấp 
và khách hàng đảm bảo được việc doanh nghiệp sẽ thực hiện các cam kết đặt 
ra; các cơ quan quản lý Nhà nước có được các chính sách để tạo điều kiện 
thuận lợi cũng như hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và 
đồng thời kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp bằng pháp luật. 
Báo cáo tài chính kế toán là sản phẩm cuối cùng của công tác kế toán, tất 
cả các thông tin mà kế toán cung cấp đều được thể hiện trên báo cáo tài chính 
kế toán cuối kỳ của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà chúng ta có thể coi hệ 
thống báo cáo tài chính kế toán là một tấm gương phản ánh toàn diện về tình 
hình tài chính, khả năng và sức mạnh của một doanh nghiệp tại một thời điểm 
nhất định. Do đó, việc trình bày các báo cáo tài chính kế toán một cách trung 
thực và khách quan sẽ là điều kiện tiên quyết để phân tích chính xác tình hình 
tài chính của doanh nghiệp . 
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính và 
đánh giá thực trạng tài chính của một doanh nghiệp, trong thời gian thực tập 
tại Công ty XNKthiết bị điện ảnh -truy ền hình , nhờ có sự giúp đỡ của giáo viên 
hướng dẫn và các cán bộ phòng kế toán tài vụ, Ban quản lý của Công ty, em 
đã mạnh dạn chọn đề tài: "Phân tích tình hình tài chính thông qua hệ
thống báo cáo tài chính kế toán và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử 
dụng vốn kinh doanh tại Công ty XNK Thiết bị điện ảnh -truyền hình”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày với nội dung như 
sau :
Phần I:Lý luận chung về phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống 
báo cáo tài chính kế toán trong doanh nghiệp
Phần II:Phân tích tình hình tài chính của Công ty XNK Thiết bị điện ảnh -truyền hình” chủ yếu thông qua bảng CĐKT và BCKQKD :
Phần III:Một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện tình hình tài 
chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty XNK 
Thiết bị điện ảnh -truyền hình
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 107 trang
107 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2011 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài chính kế toán và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị điện ảnh – truyền hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
1 
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP 
KHOA 
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG 
Đề tài: "Phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống 
báo cáo tài chính kế toán và các biện pháp nâng cao hiệu 
quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty XNK Thiết bị 
điện ảnh - truyền hình”. 
Sinh viên: NGUYỄN HỮU NINH 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
2 
Lời nói đầu 
 Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, là 
một đơn vị hạch toán độc lập, tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh để tạo 
ra các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã 
hội nhằm thực hiện các mục tiêu về lợi nhuận. Tối đa hoá lợi nhuận là kim 
chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần 
phải có những quyết sách, chiến lược phù hợp, kịp thời đối với các hoạt động 
kinh tế của mình. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường đa thành phần, nếu 
chỉ dựa vào khả năng của mình và bỏ qua sự hỗ trợ của các nguồn lực bên 
ngoài, doanh nghiệp khó có thể đứng vững và phát triển được. 
 Phân tích tình hình tài chính là một công việc thường xuyên và vô cùng 
cần thiết không những đối với chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn cần thiết đối 
với tất cả các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ về kinh tế và 
pháp lý với doanh nghiệp. Đánh giá được đúng thực trạng tài chính, chủ 
doanh nghiệp sẽ đưa ra được các quyết định kinh tế thích hợp, sử dụng một 
cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và các nguồn lực; Nhà đầu tư có quyết định 
đúng đắn với sự lựa chọn đầu tư của mình; các chủ nợ được đảm bảo về khả 
năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản cho vay; Nhà cung cấp 
và khách hàng đảm bảo được việc doanh nghiệp sẽ thực hiện các cam kết đặt 
ra; các cơ quan quản lý Nhà nước có được các chính sách để tạo điều kiện 
thuận lợi cũng như hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và 
đồng thời kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp bằng pháp luật. 
 Báo cáo tài chính kế toán là sản phẩm cuối cùng của công tác kế toán, tất 
cả các thông tin mà kế toán cung cấp đều được thể hiện trên báo cáo tài chính 
kế toán cuối kỳ của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà chúng ta có thể coi hệ 
thống báo cáo tài chính kế toán là một tấm gương phản ánh toàn diện về tình 
hình tài chính, khả năng và sức mạnh của một doanh nghiệp tại một thời điểm 
nhất định. Do đó, việc trình bày các báo cáo tài chính kế toán một cách trung 
thực và khách quan sẽ là điều kiện tiên quyết để phân tích chính xác tình hình 
tài chính của doanh nghiệp . 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
3 
 Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính và 
đánh giá thực trạng tài chính của một doanh nghiệp, trong thời gian thực tập 
tại Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình , nhờ có sự giúp đỡ của giáo viên 
hướng dẫn và các cán bộ phòng kế toán tài vụ, Ban quản lý của Công ty, em 
đã mạnh dạn chọn đề tài: "Phân tích tình hình tài chính thông qua hệ 
thống báo cáo tài chính kế toán và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử 
dụng vốn kinh doanh tại Công ty XNK Thiết bị điện ảnh - truyền hình”. 
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày với nội dung như 
sau : 
Phần I: Lý luận chung về phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống 
báo cáo tài chính kế toán trong doanh nghiệp 
Phần II: Phân tích tình hình tài chính của Công ty XNK Thiết bị điện ảnh - 
truyền hình” chủ yếu thông qua bảng CĐKT và BCKQKD : 
Phần III: Một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện tình hình tài 
chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty XNK 
Thiết bị điện ảnh - truyền hình 
. 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
4 
Phần I 
Lý luận chung về phân tích tình hình tài chính thông qua hệ 
thống báo cáo tài chính kế toán trong doanh nghiệp 
---------------&--------------- 
I. Tài chính doanh nghiệp và sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính doanh 
nghiệp. 
1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp và các mối quan hệ tài 
chính chủ yếu của doanh nghiệp. 
1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp : 
 Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong bản thân 
doanh nghiệp mà cả trong nền kinh tế, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển 
của mỗi quốc gia mà tại đây diễn ra quá trình sản xuất kinh doanh : Đầu tư, 
tiêu thụ và phân phối, trong đó sự tru chuyển của vốn luôn gắn liền với sự 
vận động của vật tư hàng hoá. 
 Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động 
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh 
tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái 
tiền tệ. Nói cách khác, trên giác độ kinh doanh vốn, hoạt động tài chính là 
những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử 
dụng và quản lý vốn một cách có hiệu quả. 
 Để nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp mình cũng như tình 
hình tài chính của các đối tượng quan tâm thì việc phân tích tài chính là rất 
quan trọng. Thông qua việc phân tích tình hình tài chính, người ta có thể sử 
dụng thông tin đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro trong 
tương lai và triển vọng của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích tình hình 
tài chính của doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm đối tượng khác 
nhau như Ban giám đốc (Hội đồng quản trị) các nhà đầu tư, các cổ đông, các 
chủ nợ, các nhà cho vay tín dụng, nhân viên ngân hàng, các nhà bảo hiểm và 
kể cả cơ quan Nhà nước cũng như người lao động. Mỗi nhóm người này có 
nhu cầu thông tin khác nhau, do vậy mỗi nhóm có những xu hướng tập trung 
vào các khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của một doanh nghiệp. 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
5 
1.2: Các mối quan hệ tài chính chủ yếu của doanh nghiệp: 
 Hoạt đônag tài chính của doanh nghiệp rất phức tạp, phong phú và đa 
dạng, muốn phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thì trước hết phải 
hiểu rõ được các mối quan hệ tài chính chủ yếu của doanh nghiệp: 
1.2.1: Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: 
 Quan hệ này phát sinh dưới hình thái tiền tệ, theo hai chiều vận động 
ngược nhau. Đó là: Ngân sách Nhà nước góp phần hình thành vốn sản xuất 
kinh doanh (tuỳ theo mức độ và loại hình sở hữu doanh nghiệp); Ngược lại 
doanh nghiệp phải nộp các khoản thuế, phí, lệ phí theo quy định để hình 
thành Ngân sách Nhà nước. 
1.2.2: Quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức trung gian tài 
chính: 
 Các trung gian tài chính (chủ yếu là ngân hàng ) là cầu nối giữa người có 
vốn tạm thời nhàn rỗi với người cần vốn để đầu tư kinh tế. Quan hệ này phát 
sinh khi doanh nghiệp đi vay vốn của các tổ chức tín dụng đồng thời trả chi 
phí cho việc sử dụng vốn đi vay đó . 
1.2.3: Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường: 
 Với tư cách là một chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp có quan hệ với thị 
trường cung cấp các yếu tố đầu vào và thị trường phân phối đầu ra.Thông qua 
thị trường, doanh nghiệp có thể xác định nhu cầu sản phẩm và dịch vụ cung 
ứng, từ đó doanh nghiệp xác định số tiền đầu tư cho kế hoạch sản xuất và tiêu 
thụ nhằm thoả mãn nhu cầu xã hội và thu được lợi nhuận tối đa với lượng chi 
phí bỏ ra thấp nhất , đứng vững và liên tục mở rộng thị trường trong môi 
trường cạnh tranh khốc liệt. 
 Trong nền kinh tế thị trường, ngoài các yếu tố nêu trên, các doanh nghiệp 
còn phải tiếp cận với thị trường vốn. Doanh nghiệp có thể tạo ra được nguồn 
vốn dài hạn bằng việc phát hành chứng khoán như kỳ phiếu, cổ phiếu, đồng 
thời có thể kinh doanh chứng khoán để kiếm lời trên thị trường này. 
1.2.4: Quan hệ phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp: 
 Biểu hiện của quan hệ này là sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp. Đó 
là các quan hệ tài chính giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh với nhau, giữa 
các đơn vị thành viên với nhau, giữa quyền sử dụng vốn và sở hữu vốn. Các 
quan hệ này được biểu hiện thông qua các chính sách tài chính của doanh 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
6 
nghiệp như chính sách phân phối thu nhập, chính sách về cơ cấu vốn, về đầu 
tư và cơ cấu đầu tư. 
1.2.5: Quan hệ giữa doanh nghiệp với hộ gia đình: 
 Quan hệ này phát sinh khi doanh nghiệp thu hút sức lao động, tiền vốn 
của các thành viên hộ gia đình để phục vụ cho mục tiêu kinh doanh, đồng 
thời doanh nghiệp phải trả tiền lương, lãi suất cho họ. 
1.2.6: Quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối tác nước ngoài: 
 Quan hệ này phát sinh khi doanh nghiệp vay, cho vay, trả nợ và đầu tư 
với các tổ chức kinh tế nước ngoài. 
 Tóm lại, thông qua các mối quan hệ trên cho thấy tài chính doanh nghiệp 
đã góp phần hình thành nên nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, các doanh nghiệp 
phải sử dụng đúng đắn và có hiệu quả các công cụ tài chính nhằm thúc đấy 
doanh nghiệp không ngừng hoàn thiện các phương thức kinh doanh để đạt 
hiệu quả cao hơn, nếu không sẽ kìm hãm sự phát triển của toàn bộ hệ thống 
tài chính quốc gia. 
2. Sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính của doanh 
nghiệp. 
 Trong môi trường cạnh tranh gay gắt trên nhiều lĩnh vực khác nhau của 
nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững và phát 
triển được thì phải bảo đảm một tình hình tài chính vững chắc và ổn định. 
Muốn vậy phải phân tích được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân 
tích tài chính là nghiên cứu khám phá hoạt động tài chính đã được biểu hiện 
bằng con số. Cụ thể hơn , phân tích tình hình tài chính là quá trình xem xét, 
kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ mà 
nếu không phân tích thì các con số đó chưa có ý nghĩa lớn đối với những 
người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhiệm vụ của phân 
tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là sử dụng các công cụ, phương 
pháp và kỹ thuật để làm các con số nói lên thực chất của tình hình tài chính 
của doanh nghiệp. Các quyết định của người quan tâm sẽ chính xác hơn nếu 
như họ nắm bắt được cơ chế hoạt động tài chính thông qua việc sử dụng 
thông tin của phân tích tài chính. Mặc dù việc sử dụng thông tin tài chính của 
một nhóm người trên những góc độ khác nhau, song phân tích tình hình tài 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
7 
chính cũng nhằm thoả mãn một cách duy nhất cho các đối tương quan tâm, 
cụ thể là: 
 Đối với bản thân doanh nghiệp: Việc phân tích tình hình tài chính sẽ giúp 
cho các nhà lãnh đạo và bộ phận tài chính doanh nghiệp thấy được tình hình 
tài chính của đơn vị mình và chuẩn bị lập kế hoạch cho tương lai cũng như 
đưa ra các kết quả đúng đắn kịp thời phục vụ quản lý. Qua phân tích, nhà 
lãnh đạo doanh nghiệp thấy được một cách toàn diện tình hình tài chính trong 
doanh nghiệp trong mối quan hệ nội bộ với mục đích lợi nhuận và khả năng 
thanh toán để trên cơ sở đó dẫn dắt doanh nghiệp theo một chiều hướng sao 
cho chỉ số của chỉ tiêu tài chính thoả mãn yêu cầu của chủ nợ cũng như của 
các chủ sở hữu. 
 Đối với các chủ Ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng: Phân tích tình 
hình tài chính cho thấy khả năng thanh toán của doanh nghiệp về các khoản 
nợ và lãi. Đồng thời, họ quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu, khả năng 
sinh lời của doanh nghiệp để đánh giá đơn vị có trả nợ được hay không trước 
khi quyết định cho vay. 
 Đối với nhà cung cấp: Doanh nghiệp là khách hàng của họ trong hiện 
tại và tương lai. Họ cần biết khả năng thanh toán có đúng hạn và đầy đủ của 
doanh nghiệp đối với món nợ hay không. Từ đó họ đặt ra vấn đề quan hệ lâu 
dài đối với doanh nghiệp hay từ chối quan hệ kinh doanh . 
 Đối với các nhà đầu tư : Phân tích tình hình tài chính giúp cho họ thấy 
khả năng sinh lợi, mức độ rủi ro hiện tại cũng như trong tương lai của doanh 
nghiệp để quyết định xem có nên đầu tư hay không. 
 Đối với công nhân viên trong doanh nghiệp: Nhóm người này cũng 
muốn biết về thu nhập của mình có ổn định không và khả năng sinh lời của 
doanh nghiệp. 
 Đối với Nhà nước: Cần thông tin cho việc áp dụng các chính sách quản 
lý vĩ mô, để điều tiết nền kinh tế. 
 Như vậy, hoạt động tài chính tập trung vào việc mô tả mối quan hệ mật 
thiết giữa các khoản mục và nhóm các khoản mục nhằm đạt được mục tiêu 
cần thiết phục vụ cho chủ doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
8 
nhằm đưa ra quyết định hợp lý, hiệu quả phù hợp với mục tiêu của đối tượng 
này. Mục đích tối cao và quan trọng nhất của phân tích tình hình tài chính là 
giúp cho nhà quản trị lựa chọn được phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá 
chính xác tiềm năng của doanh nghiệp. Để phân tích tình hình tài chính của 
doanh nghiệp thì hệ thống báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp chính 
là cơ sở tài liệu hết sức quan trọng . 
II. Hệ Thống báo cáo tài chính kế toán trong phân tích tình hình tài chính của doanh 
nghiệp. 
1. Khái niệm và ý nghĩa. 
1.1. Khái niệm: 
 Báo cáo tài chính kế toán là những báo cáo tổng hợp được lập dựa vào 
phương pháp kế toán tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán, theo các chỉ tiêu 
tài chính phát sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Các báo cáo 
tài chính kế toán phản ánh một cách có hệ thống tình hình tài sản, công nợ, 
tình hình sử dụng vốn và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 
trong những thời kỳ nhất định, đồng thời chúng được giải trình giúp cho các 
đối tượng sử dụng thông tin tài chính nhận biết được thực trạng tài chính và 
tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị để đề ra các quyết định cho phù hợp 
. 
1.2. ý nghĩa: 
 Báo cáo tài chính kế toán là căn cứ quan trọng cho việc đề ra quyết định 
quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách thích hợp, giúp 
cho chủ doanh nghiệp sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và các 
nguồn lực, nhà đầu tư có được quyết định đúng đắn đối với sự đầu tư của 
mình, các chủ nợ được bảo đảm về khả năng thanh toán của doanh nghiệp về 
các khoản cho vay, Nhà cung cấp và khách hàng đảm bảo được việc doanh 
nghiệp thực hiện các cam kết, các cơ quan Nhà nước có được các chính sách 
phù hợp để hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp cũng như kiểm soát được doanh nghiệp bằng pháp luật 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
9 
2. Vai trò mục đích và các yêu cầu đối với các thông tin trình bày 
trên hệ thống báo cáo tài chính kế toán 
2.1. Vai trò: 
Hệ thống báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp có những vai trò 
sau đây : 
* Cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết, giúp kiểm tra phân tích 
một cách tổng hợp toàn diện có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh, tình 
hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính chủ yếu của doanh nghiệp . 
* Cung cấp thông tin, số liệu để kiểm tra, giám sát tình hình hạch toán 
kinh doanh, tình hình chấp hành các chính sách chế độ kế toán - tài chính của 
doanh nghiệp . 
* Cung cấp thông tin và số liệu cần thiết để phân tích và đánh giá tình 
hình, khả năng về tài chính- kinh tế của doanh nghiệp, giúp cho công tác dự 
báo và lập kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp . 
2.2. Mục đích : 
 Doanh nghiệp phải lập và trình bày các báo cáo tài chính kế toán với các 
mục đích sau: 
* Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát và toàn diện tình hình biến 
động về tài sản công nợ và nguồn vốn chủ sở hữu, tình hình kết quả hoạt 
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán . 
* Cung cấp các thông tin kinh tế tài chính chủ yếu phục vụ việc đánh 
giá, phân tích tình hình kết quả hoạt động kinh doanh đánh giá thực trạng tài 
chính của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua ,làm cơ sở để đưa ra các 
quyết định kinh tế trong tương lai . 
2.3. Yêu cầu đối các thông tin trình bày trên các báo cáo tài chính kế 
toán: 
Để thực hiện được vai trò là hệ thống cung cấp thông tin kinh tế hữu 
ích của doanh nghiệp cho các đối tượng sử dụng, các thông tin trên các báo 
cáo tài chính kế toán phải đáp ứng các yêu cầu sau: 
 Tính dễ hiểu: Các thông tin do các báo cáo tài chính kế toán cung cấp 
phải dễ hiểu đối với người sử dụng để họ có thể lấy đó làm căn cứ đưa ra các 
quyết định của mình. Tất nhiên người sử dụng ở đây phải là người có kiến 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
10 
thức về hoạt động kinh doanh và hoạt động kinh tế, hiểu biết về lĩnh vực tài 
chính kế toán ở một mức độ nhất định . 
 Độ tin cậy: Để báo cáo tài chính kế toán thực sự hữu ích đối với người sử 
dụng, các thông tin trình bầy trên đó phải đáng tin cậy. Các thông tin được 
coi là đáng tin cậy khi chúng đảm bảo một số yêu cầu sau 
 + Trung thực: Để có độ tin cậy, các thông tin phải được trình bầy một 
cách trung thực về những giao dịch và sự kiện phát sinh. 
 + Khách quan : Để có độ tin cậy cao, thông tin trình bầy trên báo cáo tài 
chính kế toán phải khách quan, không được xuyên tạc hoặc bóp méo một 
cách cố ý thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính sẽ 
không được coi là khách quan nếu việc lựa chọn hoặc trình bầy có ảnh hưởng 
đến việc ra quyết định hoặc xét đoán và cách lựa chọn trình bầy đó nhằm đạt 
đến kết quả mà người lập báo cáo đã biết trước . 
 + Đầy đủ: thông tin trên báo cáo tài chính kế toán cung cấp phải đảm bảo 
đầy đủ, không bỏ sót bất cứ khoản mục hay chỉ tiêu nào vì một sự bỏ sót dù 
nhỏ nhất cũng có thể gây ra thông tin sai lệch dẫn đến kết luận phân tích 
nhầm lẫn . 
 + Tính so sánh được: Các thông tin do hệ thống báo cáo tài chính kế toán 
cung cấp phải đảm bảo cho người sử dụng có thể so sánh chúng với các kỳ 
trước, kỳ kế hoạch để xác định được xu hướng biến động thay đổi về tình 
hình tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra, người sử dụng cũng có nhu cầu so 
sánh báo cáo tài chính kế toán của các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực để 
đánh giá mối tương quan giữa các doanh nghiệp cũng như so sánh thông tin 
khi có sự thay đổi về cơ chế chính sách tài chính kế toán mà doanh nghiệp áp 
dụng. 
 + Tính thích hợp: Để báo cáo tài chính kế toán trở nên có ích cho người 
sử dụng, các thông tin trình bầy trên báo cáo tài chính kế toán phải thích hợp 
với người sử dụng để họ có thể đưa ra các quyết định kinh tế của mình. 
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp nguyÔn h÷u ninh 
khoa tµi chÝnh – ng©n hµng 
11 
3. Nguyên tắc trình bầy thông tin trên hệ thống báo cáo tài chính 
kế toán. 
 Nhìn chung, báo cáo tài chính kế toán là sản phẩm cuối cùng của quá 
trình hạch toán của doanh nghiệp. Tất cả các phần hành kế toán đều có mục đích 
chung là phản ánh các giao dịch và sự kiện phát sinh trong kỳ để lập và trình bầy 
báo cáo tài chính kế toán.Vì vậy, việc trình bầy thông tin trên hệ thống báo cáo tài 
chính kế toán của doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc chung sau : 
 Nguyên tắc thước đo tiền tệ: yêu cầu thông tin trình bầy trên báo cáo tài 
chính kế toán phải tuân thủ các quy định về đơn vị tiền tệ và đơn vị tính một 
cách thống nhất khi trình bầy các chỉ tiêu trong một niên độ kế toán. 
 Nguyên tắc coi trọng bản chất hơn hình thức: Một thông tin được coi là 
trình bày một cách trung thực về những giao dịch và sự kiện khi chúng phản 
ánh được bản chất kinh tế của giao dịch và sự kiện đó chứ không đơn thuần là 
hình thức của giao dịch và sự kiện. 
 Nguyên tắc trọng yếu: Theo nguyên tắc này, mọi thông tin mang tính 
trọng yếu cần thiết được trình bày riêng rẽ trong báo cáo tài chính kế toán vì 
thông tin đó có thể tác động trực tiếp đến việc đưa ra các quyết định kinh tế 
của người sử dụng báo cáo tài chính kế toán. 
 Nguyên tắc tập hợp: Theo nguyên tắc này, đối với các thông tin không 
mang tính trọng yếu thì không cần thiết phải trình bày riêng rẽ mà cần tập 
hợp chúng lại theo cùng tính chất hoặc cùng chức năng tương đương nhằm 
mục đích đơn giản hoá công tác phân tích báo cáo tài chính kế toán. 
 Nguyên tắc nhất quán: Việc trình bày và phân loại các khoản mục trong