Clorua natri, còn gọi là natri clorua, muối ăn, muối, muối mỏ, hay
halua, là hợp chất hóa họcvới công thức hóa học NaCl. Clorua natri là muốichủ
yếu tạo ra độmặn trong các đại dươngvà của chất lỏng ngoại bàocủa nhiều cơthể
đa bào. Là thành phần chính trong muối ăn, nó được sửdụng phổbiến nhưlà đồ
gia vịvà chất bảo quản thực phẩm.
8 trang |
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Clorua natri, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Clorua natri
Nguồn: vi.wikipedia.org
Clorua natri, còn gọi là natri clorua, muối ăn, muối, muối mỏ, hay
halua, là hợp chất hóa học với công thức hóa học NaCl. Clorua natri là muối chủ
yếu tạo ra độ mặn trong các đại dương và của chất lỏng ngoại bào của nhiều cơ thể
đa bào. Là thành phần chính trong muối ăn, nó được sử dụng phổ biến như là đồ
gia vị và chất bảo quản thực phẩm.
Mục lục
[ẩn]
• 1 Cấu trúc tinh thể
• 2 Vai trò sinh học
• 3 Muối trong lịch sử
• 4 Trong tôn giáo
• 5 Sản xuất và sử dụng
o 5.1 Chất điều vị
o 5.2 Sử dụng trong sinh học
o 5.3 Khử băng
o 5.4 Các phụ gia
• 6 Từ nguyên học
• 7 Các dữ liệu khác
• 8 Xem thêm
• 9 Liên kết ngoài
Cấu trúc tinh thể
Clorua natri tạo thành các tinh thể có cấu trúc cân đối lập phương. Trong
các tinh thể này, các ion clorua lớn hơn được sắp xếp trong khối khép kín lập
phương, trong khi các ion natri nhỏ hơn điền vào các lỗ hổng bát diện giữa chúng.
Mỗi ion được bao quanh bởi 6 ion khác loại. Cấu trúc cơ bản như thế này cũng
được tìm thấy trong nhiều khoáng chất khác và được biết đến như là cấu trúc halua
Vai trò sinh học
Clorua natri là khoáng chất thiết yếu cho sự sống trên Trái Đất. Phần lớn
các mô sinh học và chất lỏng trong cơ thể chứa các lượng khác nhau của clorua
natri. Nồng độ các ion natri trong máu có mối liên quan trực tiếp với sự điều chỉnh
các mức an toàn của hệ cơ thể-chất lỏng. Sự truyền các xung thần kinh bởi sự
truyền tính trạng tín hiệu được điều chỉnh bởi các ion natri. (Các ion kali- một kim
loại có các thuộc tính rất giống natri, cũng là thành phần chính trong cùng các hệ
cơ thể).
Dung dịch 0,9% clorua natri trong nước được gọi là nước đẳng trương hay
dung dịch sinh lý học do nó là đẳng trương với huyết tương. Nó được biết đến
trong y học như là normal saline. Sung dịch nước đẳng trương là cơ sở chính của
phẫu thuật thay thế chất lỏng được sử dụng rộng rãi trong y học để ngăn chặn hay
xử lý sự mất nước, hay để truyền ven để ngăn sốc do mất máu.
Người là dị thường trong số các loài linh trưởng do có sự tiết ra mồ hôi
chứa một lượng lớn clorua natri
Muối trong lịch sử
Khả năng bảo quản của muối là cơ sở của các nền văn minh. Nó góp phần
loại bỏ sự phụ thuộc vào khả năng cung ứng thực phẩm theo mùa và cho phép con
người có thể đi xa khỏi nơi cư trú mà không lo sợ thiếu thực phẩm. Vào thời
Trung cổ, các đoàn lữ hành cùng với khoảng 40.000 lạc đà đã đi tới 4.000 dặm
xuyên qua Sahara có chở theo muối, đôi khi để trao đổi lấy nô lệ.
Cho đến những năm đầu thế kỷ 20, muối vẫn còn là một trong các động cơ
chủ yếu của các nền kinh tế và các cuộc chiến tranh. Muối đóng một vai trò nổi
bật trong việc xác định quyền lực và sự phân bổ vị trí của các thành phố lớn nhất
trên thế giới. Timbuktu đã từng là một trong các thị trường muối lớn nhất.
Liverpool phát triển từ một cảng nhỏ của Anh để trở thành hải cảng xuất khẩu chủ
yếu đối với các loại muối mỏ được khai thác từ mỏ muối lớn Cheshire và vì thế trở
thành nguồn của muối thế giới trong những năm thế kỷ 19.
Muối đã tạo ra và hủy diệt các vương quốc. Các mỏ muối ở Ba Lan đã dẫn
tới sự ra đời của hoàng loạt các vương quốc trong thế kỷ 16, và chỉ bị tiêu diệt khi
người Đức đưa ra loại muối biển (thông thường, đối với phần lớn trên thế giới,
được coi là 'hơn hẳn' muối mỏ). Người Venezia đã đánh nhau và giành thắng lợi
trong cuộc chiến với người Genova về vấn đề muối. Tuy nhiên, người Genova mới
là người giành thắng lợi cuối cùng. Những công dân Genova như Christopher
Columbus và Giovanni Caboto đã "phá hủy" thương mại ở Địa Trung Hải bằng
việc giới thiệu Tân Thế Giới đối với thị trường.
Muối đã từng là một trong số các hàng hóa có giá trị nhất đối với loài
người. Muối đã từng bị đánh thuế có lẽ từ thế kỷ 20 TCN ở Trung Quốc. Trong
thời kỳ Đế chế La Mã, muối đôi khi được sử dụng như là đơn vị tiền tệ, và có lẽ là
nguồn gốc của từ salary ("salt money"-tức tiền muối, xem dưới đây từ nguyên
học). Cộng hòa La Mã và Đế chế La Mã đã kiểm soát giá muối, tăng nó để có tiền
cho các cuộc chiến hay giảm nó để đảm bảo cho các công dân nghèo nhất cũng có
thể dễ dàng có được phần quan trọng trong khẩu phần thức ăn này. Trong tiến
trình lịch sử, muối ăn đã có ảnh hưởng tới diễn biến các cuộc chiến, chính sách tài
chính của các nhà nước và thậm chí là sự khởi đầu của các cuộc cách mạng.
Tại đế chế Mali, các thương nhân ở Timbuktu thế kỷ 12-cánh cửa tới sa
mạc Sahara và trung tâm văn học-đánh giá muối có giá trị đến mức chỉ có thể mua
nó theo trọng lượng tính đúng bằng trọng lượng của vàng; việc kinh doanh này
dẫn tới truyền thuyết về sự giàu có khó tưởng tượng nổi của Timbuktu và là
nguyên nhân dẫn tới lạm phát ở châu Âu, là nơi mà muối được xuất khẩu tới.
Thời gian sau này, ví dụ trong thời kỳ đô hộ của người Anh thì việc sản
xuất và vận chuyển muối đã được kiểm soát ở Ấn Độ như là các biện pháp để thu
được nhiều tiền thuế. Điều này cuối cùng đã dẫn tới cuộc biểu tình muối ở Dandi,
do Mahatma Gandhi dẫn đầu vào năm 1930 trong đó hàng nghìn người Ấn Độ đã
ra biển để sản xuất muối cho chính họ nhằm phản đối chính sách thuế của người
Anh.
Việc buôn bán muối dựa trên một thực tế — nó đem lại nhiều lợi nhuận
hơn khi bán các thực phẩm có chứa muối chứ không phải chính muối. Trước khi
các mỏ muối ở Cheshire được phát hiện thì việc kinh doanh khổng lồ các loại cá
của người Anh đối với muối của người Pháp đã từng tồn tại. Điều này không phải
là sự hòa hợp tốt đẹp cho mỗi quốc gia khi họ không muốn phụ thuộc vào nhau.
Cuộc tìm kiếm cá và muối đã dẫn tới cuộc chiến tranh bảy năm giữa hai nước. Với
sự kiểm soát của người Anh đối với nghề muối ở Bahamas và cá tuyết Bắc Mỹ thì
tầm ảnh hưởng của họ đã tăng lên nhanh chóng trên thế giới. Việc tìm kiếm các
mỏ dầu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã sử dụng các công nghệ và phương
thức mà những người khai thác muối đã dùng, thậm chí đến mức mà họ tìm kiếm
dầu ở những nơi có các mỏ muối.
Trong tôn giáo
Có 32 chỉ dẫn liên quan tới muối trong Kinh Thánh, quen thuộc nhất có lẽ
là câu chuyện về vợ của Lot, là người đã trở thành cột muối sau khi bà đã không
tuân lệnh các thiên sứ và quay lại nhìn thành phố độc ác Sodom (Chúa sáng tạo ra
thế giới 19:26). Giê-su cũng được nói đến đối với các tín đồ của ông như là "muối
của đất" (Matthew 5:13), một minh chứng cho giá trị lớn của muối trong thế giới
cổ đại.
Trong tín ngưỡng shinto của người Nhật, muối được coi là "tinh khiết" và
có thể sử dụng để làm tinh khiết (ban phúc) cho con người và các địa điểm.
Sản xuất và sử dụng
Ngày nay, muối được sản xuất bằng cách cho bay hơi nước biển hay nước
muối từ các nguồn khác, chẳng hạn các giếng nước muối và hồ muối, và bằng khai
thác muối mỏ.
Trong khi phần lớn mọi người là quen thuộc với việc sử dụng nhiều muối
trong nấu ăn, thì họ có thể lại không biết là muối được sử dụng quá nhiều trong
các ứng dụng khác, từ sản xuất bột giấy và giấy tới cố định thuốc nhuộm trong
công nghiệp dệt may và sản xuất vải, trong sản xuất xà phòng và bột giặt. Tại phần
lớn các khu vực của Canada và miền bắc Hoa Kỳ thì một lượng lớn muối mỏ được
sử dụng để giúp làm sạch băng ra khỏi các đường cao tốc trong mùa đông, mặc dù
"Road Salt" mất khả năng làm chảy băng ở nhiệt độ dưới -15°C tới -20°C (5°F tới
-4°F).
Muối cũng là nguyên liệu để sản xuất clo là chất cần thiết để sản xuất nhiều
vật liệu ngày nay như PVC và một số thuốc trừ sâu.
Độ hòa tan của NaCl trong các dung môi khác nhau
(g NaCl / 100 g dung môi ở 25°C)
H O2 36
Dung dịch amôniắc 3,02
Mêtanol 1,4
Axít formic 5,2
Sulfolan 0,005
Axêtônitril 0,0003
Axêtôn 0,000042
Formamid 9,4
Đimêtyl formamid 0,04
Tham khảo:
Burgess, J. Metal Ions in Solution
(Ellis Horwood, New York, 1978)
ISBN 0853120277
Chất điều vị
Xem bài chính: Muối ăn
Muối được sử dụng chủ yếu như là chất điều vị cho thực phẩm và được xác
định như là một trong số các vị cơ bản. Thật không may là nhiều khi người ta ăn
quá nhiều muối vượt quá định lượng cần thiết, cụ thể là ở các vùng có khí hậu
lạnh. Điều này dẫn đến sự tăng cao huyết áp ở một số người, mà trong nhiều
trường hợp là nguyên nhân của chứng nhồi máu cơ tim.
Sử dụng trong sinh học
Nhiều loại vi sinh vật không thể sống trong các môi trường quá mặn: nước
bị thẩm thấu ra khỏi các tế bào của chúng. Vì lý do này muối được sử dụng để bảo
quản một số thực phẩm, chẳng hạn thịt/cá xông khói. Nó cũng được sử dụng để
khử trùng các vết thương.
Khử băng
Trong khi muối là mặt hàng khan hiếm trong lịch sử thì sản xuất công
nghiệp ngày nay đã làm cho nó trở thành mặt hàng rẻ tiền. Khoảng 51% tổng sản
lượng muối toàn thế giới hiện nay được các nước có khí hậu lạnh dùng để khử
băng các con đường trong mùa đông. Điều này là do muối và nước tạo ra một hỗn
hợp eutecti có điểm đóng băng thấp hơn khoảng 10°C so với nước nguyên chất:
các ion ngăn cản không cho các tinh thể nước đá thông thường được tạo ra (dưới
−10°C thì muối không ngăn được nước đóng băng). Các e ngại là việc sử dụng
muối như thế có thể bất lợi cho môi trường. Vì thế tại Canada thì người ta đã đề ra
các định mức để giảm thiểu việc sử dụng muối trong việc khử băng.
[sửa] Các phụ gia
Muối ăn mà ngày nay người ta mua về dùng không phải là clorua natri
nguyên chất như nhiều người vẫn tưởng. Năm 1911 cacbonat magiê đã lần đầu
tiên được thêm vào muối để làm cho nó ít vón cục. Năm 1924 các lượng nhỏ iốt
trong dạng iốđua natri, iốđua kali hay iốđat kali đã được thêm vào, tạo ra muối iốt
nhằm giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ.