Tóm tắt
Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến sự hình thành và phát triển của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này với những bứt phá ngoạn mục về quy mô,
tốc độ và sức lan tỏa trên phạm vi toàn cầu. Thứ bậc của các quốc gia bị đảo lộn sâu sắc do những bước
tiến mạnh mẽ của các quốc gia về trình độ phát triển khoa học và công nghệ trong quá trình toàn cầu hóa.
Nhu cầu phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN chất lượng cao trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
4 cũng đang và đặt ra hết sức gay gắt, nó đòi hỏi những yêu cầu mới về vai trò, sứ mạng của giáo dục đại
học nói chung và đối với hình thức đào tạo từ xa nói riêng trong tiến trình hình thành và phát triển của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 .
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 389 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.+2$+&9j&1*1*+
ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
8 SỐ 4 (2018)
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI ĐÀO TẠO TỪ XA
Ở BẬC ĐẠI HỌC TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR DISTANCE LEARNING
AT THE UNIVERSITY IN THE 4.0 INDUSTRIAL REVOLUTION IN VIETNAM
Tóm tắt
Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến sự hình thành và phát triển của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này với những bứt phá ngoạn mục về quy mô,
tốc độ và sức lan tỏa trên phạm vi toàn cầu. Thứ bậc của các quốc gia bị đảo lộn sâu sắc do những bước
tiến mạnh mẽ của các quốc gia về trình độ phát triển khoa học và công nghệ trong quá trình toàn cầu hóa.
Nhu cầu phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN chất lượng cao trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
4 cũng đang và đặt ra hết sức gay gắt, nó đòi hỏi những yêu cầu mới về vai trò, sứ mạng của giáo dục đại
học nói chung và đối với hình thức đào tạo từ xa nói riêng trong tiến trình hình thành và phát triển của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 .
Từ khóa: cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đào tạo từ xa, đại học .
Summary
In the early decades of the 21st century, the world has witnessed the appearance and the development
of the 4th Industrial Revolution. This revolution has the spectacular development in scale, speed and
spread on a global scale. The hierarchy of nations is deeply disrupted by the rapid advancement of
nations in the level of scientific and technological development in the process of globalization. The need
to develop high-quality Science & Technology human resources in the 4th Industrial Revolution is also
hugely demanding, requiring new requirements for the role and mission of higher education in common
and in the form of distance learning in particular in the process of formation and development of the 4th
industrial revolution.
Keywords: industrial revolution 4.0, distance learning, university.
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển
của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên
nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ
hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới
phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu
thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển
mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau:
- Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như
trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu
tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ,
phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang
tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra
đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát
triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình
VŨ THỊ THANH THỦY *
VŨ THỊ ÁNH TUYẾT *
hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù
nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển
đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều
cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều
thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như
Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức
vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều
lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất
- dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
- Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những
sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản
xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh;
Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano;
Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin
và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình
cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi
toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu
dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm
lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành
sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá
thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc
biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút
ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác
động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính
trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự
hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông
minh; E-Learning...
- Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh
mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công
nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu
lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp
trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung
cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại
hình phân chia cơ cấu nhân lực mới với hai thành
phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận
chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây chuyền) và nhân
lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết kế; nghiên cứu
khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo
nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo
nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản.
Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống
như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện
tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các
ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên
ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy
tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường.
Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận
thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang
phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với
thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số
lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được
đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề
hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi
phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc
biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực
trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều
kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa.
2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại
học Việt Nam
2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại
học Việt Nam
Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay
còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương
thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học
tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người
học với nhau và với giảng viên.
So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống
* Trường Đại học Lao động - Xã hội
Ngày nhận bài: 10/5/2018; ngày thẩm định 15/7/2018; ngày duyệt đăng: 15/9/2018
.+2$+&9j&1*1*+
ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
9SỐ 4 (2018)
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển
của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên
nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ
hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới
phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu
thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển
mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau:
- Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như
trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu
tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ,
phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang
tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra
đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát
triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình
hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù
nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển
đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều
cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều
thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như
Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức
vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều
lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất
- dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
- Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những
sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản
xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh;
Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano;
Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin
và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình
cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi
toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu
dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm
lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành
sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá
thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc
biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút
ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác
động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính
trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự
hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông
minh; E-Learning...
- Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh
mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công
nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu
lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp
trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung
cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại
hình phân chia cơ cấu nhân lực mới với hai thành
phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận
chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây chuyền) và nhân
lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết kế; nghiên cứu
khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo
nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo
nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản.
Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống
như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện
tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các
ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên
ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy
tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường.
Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận
thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang
phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với
thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số
lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được
đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề
hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi
phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc
biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực
trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều
kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa.
2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại
học Việt Nam
2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại
học Việt Nam
Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay
còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương
thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học
tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người
học với nhau và với giảng viên.
So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống
Từ đó, nhận thấy ưu điểm của ĐTTX đối với
người học như sau:
- Địa điểm và thời gian học linh hoạt: Người học
có thể học tập mọi lúc, mọi nơi.
Việc trao đổi thông tin, truyền đạt kiến thức theo
yêu cầu. Sinh viên có thể truy cập các khoá học bất
kỳ nơi đâu như văn phòng làm việc, tại nhà, tại
những điểm Internet công cộng, 24 giờ một ngày, 7
ngày trong tuần, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu.
- Tiết kiệm chi phí đi lại: Sinh viên chỉ bắt buộc
phải đi thi tập trung tại địa điểm của nhà trường.
- Tiết kiệm thời gian so với phương thức giảng
dạy truyền thống: do rút giảm sự phân tán và thời
gian đi lại.
- Linh hoạt: Sinh viên có thể đăng ký bao nhiêu
khóa học mà việc học cần, có thể tự điều chỉnh thời
gian, tốc độ học theo khả năng và có thể tự tham
khảo, nghiên cứu thêm thông qua các nguồn tài liệu
được hướng dẫn tham khảo.
- Được hỗ trợ: Với hệ thống công nghệ E-Learn-
ing, sinh viên dễ dàng theo dõi tiến độ học tập, kết
quả học tập, được hỗ trợ giải đáp thông tin kịp thời.
- Đáp ứng cho mọi đối tượng.
- Dễ dàng trao đổi thông tin giữa người học với
người học và giữa người học với người dạy.
Học tập trực tuyến (E-Learning) Học truyền thống
• Tiết kiệm và linh hoạt về thời gian.
• Tiết kiệm chi phí và công sức.
• Kiểm soát được quá trình học
tập hơn thông qua các công cụ đánh
giá, đưa ra những biện pháp hỗ trợ
nhanh chóng để góp phần nâng cao
hiệu quả học tập của từng học viên.
• Có thể lữu trữ được các bài
học, phục cho việc ôn tập lại kiến
thức của các học viên.
• Cung cấp tài nguyên học tập
phong phú cho các học viên: bài
giảng, bài tập, tài liệu học tập
được biên soạn một cách bài bản và
hệ thống từ cơ bản đến nâng cao.
• Mỗi học viên có thể chủ động
tự lựa chọn cách học và tốc độ phù
hợp đỗi viên, với mình.
• Dễ tiếp cận và thuận tiện.
• Cần thiết phải có một khoảng
thời gian nhất định.
• Tốn nhiều công sức và chi phí.
• Số lượng học sinh bị giới hạn,
bị giới hạn bởi không gian và địa lý
• Đánh giá kết quả thông qua
các bài kiểm tra.
• Các tài liệu học tập: tài liệu
nội bộ của mỗi trường, sách giáo
khoa và sách tham khảo.
• Chương trình và tốc độ học do
giáo viên đưa ra chung cho tất cả
học sinh dựa trên chương trình
chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
• Sự tương tác giữa học sinh - giáo
viên, giữa học sinh với nhau thấp.
• Tiếp cận phụ thuộc vào thời
gian và khu vực địa lý.
- Người học có thể chủ động lựa chọn chương
trình học để phù hợp với vị trí công tác đào tạo,
giảng dạy, nghiên cứu khoa học hoặc theo công
việc tại các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính
đến hết năm học 2016-2017, cả nước hiện có 235
trường đại học, học viện, bao gồm: 170 trường
công lập, tương ứng 72,34%, 60 trường tư thục và
dân lập, chiếm 25,53%, và 5 trường có 100% vốn
nước ngoài, chiếm 2,13% tổng số các trường đào
tạo đại học (cơ cấu được thể hiện trong biểu đồ 1);
37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ
đào tạo trình độ tiến sĩ, 33 trường cao đẳng sư phạm
và 2 trường trung cấp sư phạm.
.+2$+&9j&1*1*+
ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
10 SỐ 4 (2018)
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển
của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên
nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ
hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới
phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu
thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển
mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau:
- Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như
trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu
tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ,
phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang
tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra
đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát
triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình
hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù
nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển
đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều
cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều
thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như
Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức
vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều
lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất
- dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
- Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những
sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản
xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh;
Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano;
Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin
và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình
cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi
toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu
dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm
lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành
sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá
thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc
biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút
ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác
động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính
trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự
hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông
minh; E-Learning...
- Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh
mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công
nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu
lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp
trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung
cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại
hình phân chia cơ cấu nhân lực mới với hai thành
phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận
chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây chuyền) và nhân
lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết kế; nghiên cứu
khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo
nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo
nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản.
Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống
như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện
tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các
ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên
ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy
tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường.
Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận
thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang
phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với
thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số
lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được
đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề
hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi
phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc
biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực
trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều
kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa.
2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại
học Việt Nam
2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại
học Việt Nam
Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay
còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương
thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học
tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người
học với nhau và với giảng viên.
So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống
Từ đó, nhận thấy ưu điểm của ĐTTX đối với
người học như sau:
- Địa điểm và thời gian học linh hoạt: Người học
có thể học tập mọi lúc, mọi nơi.
Việc trao đổi thông tin, truyền đạt kiến thức theo
yêu cầu. Sinh viên có thể truy cập các khoá học bất
kỳ nơi đâu như văn phòng làm việc, tại nhà, tại
những điểm Internet công cộng, 24 giờ một ngày, 7
ngày trong tuần, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu.
- Tiết kiệm chi phí đi lại: Sinh viên chỉ bắt buộc
phải đi thi tập trung tại địa điểm của nhà trường.
- Tiết kiệm thời gian so với phương thức giảng
dạy truyền thống: do rút giảm sự phân tán và thời
gian đi lại.
- Linh hoạt: Sinh viên có thể đăng ký bao nhiêu
khóa học mà việc học cần, có thể tự điều chỉnh thời
gian, tốc độ học theo khả năng và có thể tự tham
khảo, nghiên cứu thêm thông qua các nguồn tài liệu
được hướng dẫn tham khảo.
- Được hỗ trợ: Với hệ thống công nghệ E-Learn-
ing, sinh viên dễ dàng theo dõi tiến độ học tập, kết
quả học tập, được hỗ trợ giải đáp thông tin kịp thời.
- Đáp ứng cho mọi đối tượng.
- Dễ dàng trao đổi thông tin giữa người học với
người học và giữa người học với người dạy.
- Người học có thể chủ động lựa chọn chương
trình học để phù hợp với vị trí công tác đào tạo,