Tóm tắt
Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến sự hình
thành và phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này
với những bứt phá ngoạn mục về quy mô, tốc độ và sức lan tỏa trên phạm vi toàn
cầu. Thứ bậc của các quốc gia bị đảo lộn sâu sắc do những bước tiến mạnh mẽ của
các quốc gia về trình độ phát triển khoa học và công nghệ trong quá trình toàn cầu
hóa. Nhu cầu phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN chất lượng cao trong cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng đang và đặt ra hết sức gay gắt, nó đòi hỏi những
yêu cầu mới về vai trò, sứ mạng của giáo dục đại học nói chung và đối với hình thức
đào tạo từ xa nói riêng trong tiến trình hình thành và phát triển của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ 4
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 13 trang
13 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 550 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc đại học trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
509 
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI ĐÀO TẠO TỪ XA 
Ở BẬC ĐẠI HỌC TRƯỚC CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 
TẠI VIỆT NAM 
TS. Vũ Thị Thanh Thủy 
NCS. Vũ Thị Ánh Tuyết 
Trường Đại học Lao động - Xã hội 
Tóm tắt 
Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến sự hình 
thành và phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này 
với những bứt phá ngoạn mục về quy mô, tốc độ và sức lan tỏa trên phạm vi toàn 
cầu. Thứ bậc của các quốc gia bị đảo lộn sâu sắc do những bước tiến mạnh mẽ của 
các quốc gia về trình độ phát triển khoa học và công nghệ trong quá trình toàn cầu 
hóa. Nhu cầu phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN chất lượng cao trong cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng đang và đặt ra hết sức gay gắt, nó đòi hỏi những 
yêu cầu mới về vai trò, sứ mạng của giáo dục đại học nói chung và đối với hình thức 
đào tạo từ xa nói riêng trong tiến trình hình thành và phát triển của cuộc Cách mạng 
công nghiệp lần thứ 4 
Từ khóa: cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đào tạo từ xa, đại học 
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư 
trong quá trình phát triển của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp 
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên nền tảng của các lĩnh vực 
khoa học - công nghệ hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới phẳng với 
các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang 
phát triển mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau: 
 - Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như trước kia, các cuộc cánh mạng 
công nghiệp chủ yếu tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ, phương thức 
sản xuất, năng xuất lao động) mang tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia 
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và 
đang diễn ra đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát triển nhanh chóng, phá 
vỡ mọi giới hạn hữu hình hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù nghèo 
hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng 
trước nhiều cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều thách thức mới. Những 
nước mới phát triển sau như Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức vượt 
trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi 
nhọn; sản xuất - dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 
510 
- Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những sản phẩm công nghệ cao trong 
các lĩnh vực của sản xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh; Máy in 3D; 
Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano; Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng 
thông tin và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình cong và mỏng... Các sản 
phẩm và dịch vụ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi toàn diện 
phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hộivới 
hàm lượng chất xảm ngày càng cao (30-60% giá thành sản phẩm); với tiện ích ngày 
càng mở rộng và giá thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc biệt, chu kỳ 
sống của một sản phẩm ngày càng rút ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác động lan tỏa đến các mặt của đời 
sống xã hội (chính trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự hình thành Chính 
phủ điện tử; thành phố thông minh; E-Learning... 
 - Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh mạng công nghiệp trước đây (cuộc 
cách mạng công nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu lực lượng lao 
động xã hội theo các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp 
trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc 
cách mạng công nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại hình phân chia 
cơ cấu nhân lực mới với hai thành phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận 
chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây truyền) và nhân lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết 
kế; nghiên cứu khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo nghệ thuật...). Cơ 
cấu ngành nghề trong đào tạo nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản. Ranh 
giới các ngành công nghiệp truyền thống như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện 
lực, điện tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các ngành, chuyên ngành đào 
tạo có tính tích hợp, liên ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy tính; cơ-
điện tử; công nghệ môi trường. 
Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận thấy định hướng cho Việt Nam, 
một nước đang phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với thành phần lao 
động đơn giản khoảng 70% tổng số lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở 
thành một nước công nghiệp hiêṇ đaị, thì nhân lực được đào tạo có chất lượng cao, 
có trình độ, ngành nghề hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi phối sự 
phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân 
lực trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều kiến thức hơn trong phương thức 
đào tạo từ xa. 
2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại học Việt Nam 
2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại học Việt Nam 
Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay còn gọi là E-Learning/ online 
511 
learning) là phương thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học tập, lấy tài 
liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người học với nhau và với giảng viên. 
So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống 
Học tập trực tuyến (E-Learning) Học truyền thống 
• Tiết kiệm và linh hoạt về thời gian • Cần thiết phải có một khoảng 
thời gian nhất định 
• Tiết kiệm chi phí và công sức 
• Kiểm soát được quá trình học tập 
thông qua các công cụ đánh giá, đưa ra 
những biện pháp hỗ trợ nhanh chóng để 
góp phần nâng cao hiệu quả học tập của 
từng học viên 
• Tốn nhiều công sức và chi phí 
hơn 
• Số lượng học sinh bị giới hạn, bị 
giới hạn bởi không gian và địa lý 
• Đánh giá kết quả thông qua các 
bài kiểm tra 
• Giáo viên giảng dạy một lần 
theo giáo án và công cụ lưu trữ duy 
nhất là tập ghi chép của học sinh 
• Có thể lữu trữ được các bài học, phục 
vụ cho việc ôn tập lại kiến thức của các 
học viên 
• Các tài liệu học tập: tài liệu nội 
bộ của mỗi trường, sách giáo khoa 
và sách tham khảo 
• Cung cấp tài nguyên học tập phong phú 
cho các học viên: bài giảng, bài tập, tài liệu 
học tập được biên soạn một cách bài bản 
và hệ thống từ cơ bản đến nâng cao 
• Chương trình và tốc độ học do 
giáo viên đưa ra chung cho tất cả 
học sinh dựa trên chương trình 
chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo 
• Mỗi học viên có thể chủ động tự lựa 
chọn cách học và tốc độ phù hợp đỗi 
với mình 
• Sự tương tác giữa học sinh- giáo 
viên, giữa học sinh với nhau thấp 
• Dễ tiếp cận và thuận tiện • Tiếp cận phụ thuộc vào thời gian 
và khu vực địa lý 
Từ đó, nhận thấy ưu điểm của ĐTTX đối với người học như sau: 
✓ Địa điểm và thời gian học linh hoạt: Người học có thể học tập mọi lúc, mọi nơi. 
Việc trao đổi thông tin, truyền đạt kiến thức theo yêu cầu. Sinh viên có thể truy 
cập các khoá học bất kỳ nơi đâu như văn phòng làm việc, tại nhà, tại những điểm 
Internet công cộng, 24 giờ một ngày, 7 ngày trong tuần, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. 
✓ Tiết kiệm chi phí đi lại: Sinh viên chỉ bắt buộc phải đi thi tập trung tại địa 
điểm của nhà trường. 
✓ Tiết kiệm thời gian so với phương thức giảng dạy truyền thống: do rút giảm 
sự phân tán và thời gian đi lại. 
512 
✓ Linh hoạt: Sinh viên có thể đăng ký bao nhiêu khóa học mà việc học cần, có 
thể tự điều chỉnh thời gian, tốc độ học theo khả năng và có thể tự tham khảo, nghiên 
cứu thêm thông qua các nguồn tài liệu được hướng dẫn tham khảo. 
✓ Được hỗ trợ: Với hệ thống công nghệ E-Learning, sinh viên dễ dàng theo dõi 
tiến độ học tập, kết quả học tập, được hỗ trợ giải đáp thông tin kịp thời. 
✓ Đáp ứng cho mọi đối tượng. 
✓ Dễ dàng trao đổi thông giữa người học với người học và giữa người học với 
người dạy. 
✓ Người học có thể chủ động lựa chọn chương trình học để phù hợp với vị trí 
công tác đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu khoa học hoặc theo công việc tại các cơ 
quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. 
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến hết năm học 2016-2017, 
cả nước hiện có 235 trường đại học, học viện, bao gồm: 170 trường công lập, tương 
ứng 72,34%, 60 trường tư thục và dân lập, chiếm 25,53%, và 5 trường có 100% vốn 
nước ngoài, chiếm 2,13% tổng số các trường đào tạo đại học (cơ cấu được thể hiện 
trong biểu đồ 1); 37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ 
tiến sĩ, 33 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm. 
Biểu đồ 1. Cơ cấu các trường đại học, học viện tính đến hết năm học 2016-2017 
Nguồn: vietnamnet.vn 
Số giảng viên duy trì cho hoạt động của 235 trường đại học và học viên tính 
đến năm học 2016 - 2017 là 72.792 người, tăng 4,6% so với năm học 2015 - 2016, 
trong đó giảng viên có trình độ tiến sĩ là 16.514 (tăng 21,4%) và thạc sĩ là 43.065 
(tăng 6,6%). Với quy mô về số các trường đại học và giảng viên hiện nay mới chỉ tập 
trung đào tạo học truyền thống, hình thức đào tạo từ xa chiếm một tỷ lệ khiêm tốn tại 
các trường đại học ở Việt Nam. 
Nếu tại các trường đại học có quy mô lớn nhất thế giới đều là những trường đại 
học phát triển mạnh về Đào tạo từ xa. Một số trường đại học có sinh viên theo học 
513 
dưới hình thức này chiếm số lượng lớn như: Trường Đại học Indira Gandhi (Ấn Độ) 
với quy mô hơn 3,5 triệu sinh viên; Trường Đại học Anadolu (Thổ Nhĩ Kỳ) 1,95 
triệu sinh viên; Trường Đại học Mở Allama Iqbal Islamabad (Pakistan) 1,8 triệu sinh 
viên... Nhiều trường đại học trên thế giới, coi ĐTTX là công cụ hữu hiệu để phục vụ 
việc học tập suốt đời và phát triển đất nước thoát khỏi tình trạng tụt hậu. Tuy nhiên, 
tại Việt Nam hình thức ĐTTX thực sự chưa phát triển. 
Tại Việt Nam, hình thức đào tạo đại học, cao đẳng từ xa đã xuất hiện từ đầu 
những năm đầu của thập niên 90. Khi đó, hai trường đại học được Chính phủ giao 
nhiệm vụ đào tạo cử nhân hệ giáo dục từ xa chính cho cả nước là Đại học Mở Hà Nội 
và Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay, sau hơn 20 năm triển khai, rất 
nhiều trường đại học, cao đẳng đã tham gia đào tạo theo hình thức này, tạo điều kiện 
cho người học có nhiều thêm phương thức để lựa chọn. 
 Theo đó, năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển đào 
tạo từ xa giai đoạn 2015 - 2020”. Đề án này đã đưa ra cơ chế, chính sách để cơ quan 
chức năng có thể quản lý, nâng cao chất lượng của loại hình đào tạo từ xa. 
Những năm đầu của thập niên 90, tại Việt Nam, Chính phủ cấp phép cho 2 
trường đại học đào tạo theo hình thức từ xa, thì đến thời điểm hiện nay, Bộ Giáo dục 
và Đào tạo đã cấp phép cho 21 trường được tiến hành đào tạo theo hình thức từ xa 
ĐTTX. Trong số các trường được cấp phép ĐTTX, chỉ có 17 trường tuyển sinh đã 
tuyển sinh. 
Biểu đồ 2. Cơ cấu các trường đại học, học viên tính đến hết năm học 2016-2017 
 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo 
Song một điều đáng nói, trong 3 năm gần đây quy mô tuyển sinh ĐTTX ngày 
càng giảm sút. Năm 2012, có 17 trường đại học đăng ký chỉ tiêu tuyển sinh ĐTTX 
với tổng số là 68.020 chỉ tiêu, quy mô là 161.047 sinh viên theo học 90 chương trình 
514 
đào tạo (chiếm 6% so với tổng số sinh viên ĐH, CĐ toàn quốc). Hiện nay, quy mô 
sinh viên theo học chương trình này giảm đáng kể, từ 161.047 sinh viên (tháng 
10/2012) giảm xuống chỉ còn 70.425 sinh viên (tháng 10/2016).1 
Đến nay, hành lang pháp lí chính thức cho hình thức ĐTTX, hướng dẫn cụ thể 
cho các phương thức cũng đã được Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành tại Thông tư 
10/2017-TT/BGDĐT, theo đó, các phương thức ĐTTX: (1) Thư tín: Chương trình 
ĐTTX được thực hiện chủ yếu bằng đường thư tín thông qua học liệu chính là tài 
liệu in. Học liệu chính bao gồm: giáo trình, sách tham khảo, tài liệu hướng dẫn học 
tập, nghiên cứu, sách bài tập, tài liệu hướng dẫn thi, kiểm tra; (2) Phát thanh - truyền 
hình: Chương trình ĐTTX được thực hiện chủ yếu thông qua các hệ thống phát thanh 
- truyền hình trong đó học liệu chính là các chương trình phát thanh, truyền hình 
được phát trực tiếp hoặc phát lại trên các kênh phát thanh, truyền hình; (3) Mạng 
máy tính: Chương trình ĐTTX được thực hiện chủ yếu thông qua mạng máy tính, 
mạng Internet và mạng viễn thông trong đó học liệu chính là học liệu điện tử được 
chuyển qua mạng, việc giảng dạy được thực hiện trực tuyến hoặc không trực tuyến; 
(4) Kết hợp: kết hợp các phương thức Thư tín, Phát thanh truyền hình, Mạng máy 
tính2. Đa dạng hóa các phương thức đào tạo là cơ sở để người học tiếp cận dễ dàng 
và đáp ứng thị hiếu tốt hơn cho người học 
Để phát triển kinh tế đất nước, sẽ cần sử dụng nguồn chất lượng có chất lượng 
cao. Tuy nhiên, với một đất nước đang phát triển như Việt Nam, cơ hội để được học 
tập không còn khó khăn, khi mà Chính phủ đã công nhận hình thức ĐTTX, người 
học có nhiều hơn cơ hội lựa chọn cách thức học. Thực tế ở Việt Nam, phương thức 
học tập nhiều song có thể có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc tiếp cận các phương 
pháp học khác nhau chưa được đáp ứng, cần có lời giải cho vấn đề này. 
2.2. Đánh giá về đào tạo từ xa trong các trường đại học của Việt Nam 
Chính thức được thực hiện tại Việt Nam từ năm 1993, hình thức ĐTTX có 
không ít những khó khăn: 
Thứ nhất, công tác tuyển sinh hệ ĐTTX tại các trường đai học của Việt 
Namhiện nay ngày càng gặp nhiều khó khăn. 
Đối tượng tuyển sinh chưa đa dạng. Các trường thực hiện ĐTTX đang chỉ tập 
trung nhiều tới đối tượng là những người đã có việc làm. Họ là những người, về cơ 
bản đã hoàn thành phổ cập chương trình Đại học, Cao đẳng muốn học các lớp bồi 
dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn không cần lấy bằng cấp. Không chỉ thế, việc nhiều 
trường Đại học được thành lập mới đã tạo cơ hội cho người học có nhiều sự lựa chọn 
1 Nguồn: Bộ Giáo dục Đào tạo năm 2016 
2 Thông tư 10/2017-TT/BGDĐT, ban hành quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học, ngày 28 tháng 04 năm 2017 
515 
hơn, làm giảm thị phần đối với ĐTTX. Rào cản chính dẫn đến những khó khăn, 
thách thức mà các trường ĐH có đào tạo từ xa đang gặp phải chính là: Đảng và 
Chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn phát triển ĐTTX nhưng 
chưa có kế hoạch hành động cụ thể ở cấp bộ, ngành. 
Thứ hai, cơ sở hạ tầng tại Việt Nam chưa thực sự phát triển đồng bộ tại các 
vùng miền của cả nước, chi phí cho việc lắp đặt hệ thống mạng Internet còn cao hơn 
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. 
Chưa có nhưng chương trình hỗ trợ cụ thể để người vùng sâu, vùng xa, những 
tỷnh, kém phát triển, có điều kiện vị trí đại lý hiểm trở tiếp cận với cơ sở hạ tầng nối 
mạng. Thiết nghĩ, để giúp họ thoát nghèo, trước hết Chính phủ cần giúp họ tiếp cận 
những kiến thức mới. Bởi để tồn tại, thích ứng với cuộc sống phát triển như hiện nay, 
chúng ta không chỉ làm theo kinh nghiệm mà rất cần có kiến thức cơ bản 
Thứ ba, chất lượng của hình thức ĐTTX chưa được chú trọng. 
Một số trường chỉ chạy đua về phát triển quy mô đào tạo mà chưa quan tâm 
đến chất lượng đào tạo, chưa có giáo viên chuyên biệt dành riêng cho hệ đào tạo từ 
xa. Nhiều chương trình ĐTTX của các trường thực hiện thuê khoán những giảng viên 
trẻ, chưa có kinh nghiệm; Việc thiết kế chương trình đào tạo của các trường chưa 
chuẩn hóa, chưa gắn nội dung chương trình đào tạo với sứ mệnh phát triển của 
trường, chưa gắn với chuẩn kiến thức đầu ra cho hình thức đào tạo này. Hệ thống 
đào tạo này cũng đã xuất hiện tình trạng học hộ, thi hộ. 
Đa số các trường có ĐTTX chưa đầu tư công sức, tài chính để sản xuất, biên 
soạn học liệu và phát triển công nghệ, dẫn tới việc tổ chức dạy tập trung tại các địa 
phương thông qua các trạm đào tạo, tạo ra sự biến tướng của loại hình đào tạo này. 
Nhiều trường coi ĐTTX như là việc làm thêm để tăng nguồn thu. Quy trình quản lý 
và đảm bảo chất lượng còn lỏng lẻo, dẫn tới sự quan ngại cho dư luận xã hội. 
Thứ tư, Chính phủ, Bộ giáo dục và Đào tạo cùng các cơ quan ban ngành chưa 
xây dựng được thống thống giám sát chất lượng đủ mạnh để giúp người học và 
người dạy nâng cao chất lượng 
Thứ năm, đa số chứng chỉ, bằng cấp của hình thức đào tạo từ xa vẫn chưa được 
xã hội thừa nhận, có sự phân biệt đối xử với người học ở hình thức đào tạo này. 
Thông tin về việc thi, kiểm tra, đánh giá ĐTTX thường được tiến hành theo 
phương pháp tự luận và tổ chức tại các trạm tiếp nhận chương trình ĐTTX ở địa 
phương. Vì vậy, có nơi có lúc chưa đảm bảo tính nghiêm túc, khách quan. Một chỉ số 
phản ánh chất lượng ĐTTX là tỷ lệ số học viên tốt nghiệp trên tổng số học viên nhập 
học ban đầu. 
516 
Định kiến xã hội về loại hình ĐTTX, do người dạy không làm việc trực tiếp với 
người học nên kết quả học tập chưa được đảm bảo, khiến nhiều người nghi ngờ về chất 
lượng và văn bằng của loại hình đào tạo này. Người sử dụng lao động không tuyển dụng 
những người có bằng ĐTTX cũng khiến cho chất lượng đào tạo không đảm bảo 
Trong điều kiện thực tế hiện nay, khi cơ sở vật chất còn thiếu thốn, công nghệ 
đào tạo chưa được cải tiến đáng kể; phương thức xét tuyển đầu vào không tổ chức thi 
tuyển; chưa ứng dụng được công nghệ kiểm tra, thi, đánh giá theo phương pháp trắc 
nghiệm khách quan dẫn đến tỷ lệ tốt nghiệp chỉ khoảng 30 - 40% mới phù hợp với 
yêu cầu về chất lượng đào tạo. 
- Hệ thống giáo dục Việt Nam chưa thực sự chú trọng đến phát triển ngoại ngữ. 
Đây là trở ngại lớn khi tiếp cận học tập theo hình thức này. 
Trước cuộc cách mạng 4.0, đã tạo cơ hội cho phát triển hình thức ĐTTX, 
nhưng cũng gặp không ít thách thức. 
3. Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc đại học trước cuộc 
cách mạng công nghiệp 4.0 
3.1. Cơ hội 
- Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước luôn 
xác định, ưu tiên cho phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ. 
Ngay từ Đại hội VI (1986) và Hội nghị TW 2 khóa VIII (1996) và đến nay mọi 
chính sách vẫn khẳng định: Giáo dục, đào tạo cùng với phát triển khoa học công nghệ là 
quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển, là điều kiện cần để giữ vững độc lập dân tộc 
và xây dựng thành công XHCN. Khoa học công nghệ là then chốt trong mọi hoạt động 
của mọi ngành, các cấp, là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng và củng cố an ninh quốc phòng. 
Bởi vì, chỉ có giáo dục, đào tạo mới có tri thức, dân trí cao và làm được trong nhiều 
ngành nghề khác nhau, phát triển được nền kinh tế; Cần phải ứng dụng sự phát triển 
khoa học và công nghệ để hiện đại hóa đất nước và hội nhập toàn cầu. Khi đó, GDP/ đầu 
người tại Việt Nam thay đổi, mức sống của người dân mới được nâng cao. 
Bởi vì, trong các yếu tố của quá trình sản xuất thì sức lao động giữ vai trò quan 
trọng hàng đầu. Khi đó, giáo dục và đào tạo là quá trình tái tạo, mở rộng sức lao 
động, chỉ có giáo dục và đào tạo mới bồi dưỡng nguồn nhân lực, nâng cao sức sản 
xuất, làm cho đất nước ngày càng phát triển. 
Song, phát triển giáo dục, đào tạo cần ứng dụng sự phát triển Khoa học công 
nghệ. Trong kỉ nguyên phát triển công nghệ thông tin như hiện nay, phương thức phát 
triển giáo dục đại học không chỉ bó hẹp giáo dục và đào tạo kiểu truyền thống. Nhận 
thức được tầm quan trọng của cuộc cách mạng 4.0, Đảng và Nhà nước luôn đánh giá 
cao vai trò người thầy trên mặt trận giáo dục; Đảng luôn chỉ đạo kịp thời, sắc bén và 
ban hành nghị quyết, chỉ thị để phát triển đa dạng các hình thức dạy và học. 
517 
- Khung hành lang pháp lí trang bị cho hình thức ĐTTX khá đầy đủ. 
- Là một nước đang phát triển, việc mở rộng quy mô đào tạo ở bậc đại học 
được chú trọng, hình thức ĐTTX tạo ra cơ hội liên thông các lĩnh vực với các trường 
với nhau. Người học có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn trường học, phương thức học. 
- Các trường có cơ hội tuyển sinh được số lượng lớn người học theo hình thức này. 
Tính trung bình, ở Việt Nam mỗi năm có khoảng 900.000 học sinh tốt nghiệp 
THPT (năm 2015, 2016, 2017). Trong khi đó, chỉ tiêu tuyển sinh của 17 trường 
ĐTTX mới chỉ là 70.425, chiếm 7,83% cơ hội tuyển sinh của chương trình