Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, mọi người đều có trách nhiệm
tham gia. Để nâng cao nhận thức của cộng đồng đối với sự nghiệp bảo vệ môi
trường thì tuyên truyền, giáo dục về môi trường là công tác rất quantrọng. Tại Chỉ
thị số 36-CT/TW trong số 8 giải pháp được nêu ra, thì giải pháp đầu tiên là:
"Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và các
phong trào quần chúng bảo vệ môi trường".
Giáo dục về môi trường gồm hai phạm vi chủ yếu:giáo dục trong nhà trường và
giáo dục trong xã hội. Các hoạt động giáo dục môi trường trong hai lĩnh vực này
không thể tách rời nhau, mà phải kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
17 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1864 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cộng đồng và giáo dục môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Cộng đồng và giáo dục
môi trường
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, mọi người đều có trách nhiệm
tham gia. Để nâng cao nhận thức của cộng đồng đối với sự nghiệp bảo vệ môi
trường thì tuyên truyền, giáo dục về môi trường là công tác rất quan trọng. Tại Chỉ
thị số 36-CT/TW trong số 8 giải pháp được nêu ra, thì giải pháp đầu tiên là:
"Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và các
phong trào quần chúng bảo vệ môi trường".
Giáo dục về môi trường gồm hai phạm vi chủ yếu: giáo dục trong nhà trường và
giáo dục trong xã hội. Các hoạt động giáo dục môi trường trong hai lĩnh vực này
không thể tách rời nhau, mà phải kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
Giáo dục môi trường trong nhà trường
Về giáo dục trong nhà trường, không kể đến việc đào tạo những cán bộ chuyên
môn trong các lĩnh vực có liên quan đến tài nguyên và môi trường tại các trường
đại học, cao đẳng, thì việc đưa giáo dục môi trường vào các cấp học tiểu học và
phổ thông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì nó liên quan đến xây dựng nhận thức
cho học sinh ngay từ lúc tuổi thơ, ngay trong quá trình hình thành nhân cách của
học sinh. Nó còn đặc biệt quan trọng, vì góp phần đào tạo thế hệ tương lai hiện
chiếm tỷ lệ 22,5% tổng dân số nước ta.
Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống
giáo dục quốc dân", theo Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17-10-2001. Bộ Giáo
dục và Đào tạo cũng đã ra quyết định số 6621/QĐ-BGDĐT-KHCN ngày 30-12-
2002 phê duyệt "Chính sách và Chương trình hành động giáo dục môi trường
trong trường phổ thông giai đoạn 2001 - 2010". Theo Chương trình này, thì giai
đoạn 2001 - 2005 là giai đoạn chuẩn bị, trong đó có các công việc, như: soạn thảo
và ban hành các văn bản pháp quy; xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp
giáo dục môi trường; bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý về giáo dục môi
Việt Nam môi trường và cuộc sống
trường; xây dựng tổ chức và cơ sở vật chất; tiến hành các hoạt động ngoại khóa,
các chiến dịch truyền thông môi trường; chỉ đạo điểm. Từ năm 2006 trở đi mới là
triển khai mở rộng trong phạm vi toàn quốc. Nhìn chung một cách khách quan tình
hình phát triển của nước ta trong hơn hai thập kỷ qua, có thể nhận xét rằng việc
đưa nội dung giáo dục môi trường vào trường còn chậm. Quả là như vậy, vì các
hoạt động nghiên cứu khoa học về tài nguyên và môi trường được bắt đầu triển
khai một cách có hệ thống từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước với các chương trình
và đề tài cấp Nhà nước, không kể tới các nghiên cứu lẻ tẻ của các trường đại học,
viện nghiên cứu trước đó. Rồi trong khuôn khổ của các dự án có sự tài trợ của
nước ngoài, khoảng từ giữa thập kỷ 80, đã có những thử nghiệm đưa nội dung giáo
dục môi trường vào một số trường, lớp học, kể cả việc biên soạn và áp dụng thử
những chương trình, nội dung, tài liệu và phương pháp giảng dạy. Trong khi đó,
việc tuyên truyền giáo dục và truyền thông môi trường trong xã hội dưới các hình
thức ngày càng phong phú đã được triển khai ngay trong thập kỷ 80, nhất là từ
năm 1992-1993, với kết quả của Hội nghị Rio, sự thành lập của Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường và việc Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường.
Thế mà mãi đến năm 2001, Chính phủ mới có quyết định đưa nội dung giáo dục
môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân.
Tuy nhiên, hiện nay cũng đã có những hoạt động triển khai từng bước trong nhiều
trường. Đó cũng là một nhu cầu thực tế và bức xúc của cuộc sống. Ngày 24-1-
2002, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra quyết định số 03/2002/QĐ-BGDĐT về việc
"Ban hành chương trình trung học cơ sở", trong đó môn sinh học có hai chương
(10 tiết) liên quan đến môi trường. Đồng thời, nhiều dự án quốc tế lớn nhỏ cũng
vẫn tiếp tục giúp đỡ xây dựng các mô hình giáo dục môi trường trong trường học,
cả nội khóa và ngoại khóa và công tác truyền thông môi trường, nâng cao nhận
thức chung trong xã hội.
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Dù ở gia đình, trong nhà trường hay ngoài xã hội, việc giáo dục, hướng dẫn trẻ em
ý thức bảo vệ môi trường là rất cần thiết, phải dạy cho chúng ngay từ thuở ấu thơ.
Nội dung và các hình thức giáo dục cũng có vai trò quan trọng, nếu muốn có kết
quả thực sự, thì hình thức giáo dục cần phải phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý và
giai đoạn phát triển của trẻ em. Tuy rằng theo kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Dự án "Xây dựng chương trình, giáo trình, bài giảng về giáo dục bảo vệ môi
trường cho bậc mầm non; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non về giáo dục bảo
vệ môi trường" đang được triển khai, nhưng hiện nay cũng đã có nhiều tìm tòi và
thử nghiệm trong các hoạt động này, nhất là trong hệ thống các trường sư phạm
nhà trẻ - mẫu giáo.
Đối với trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo, giáo dục môi trường không chỉ là do những
yêu cầu bức thiết về môi trường, mà còn xuất phát từ chính nhu cầu phát triển
nhân cách của trẻ. Giáo dục môi trường ở đây không phải là giảng dạy, mà là
khích lệ sự hào hứng và tạo điều kiện để trẻ em quan sát và khám phá thế giới
xung quanh mình, từ đó bước đầu làm nảy nở trong trẻ thơ tình yêu thiên nhiên và
những thói quen ban đầu về vệ sinh trong cuộc sống. Cô giáo không phải đơn
thuần là "người trông trẻ", "giữ cho trẻ không nghịch ngợm", "giữ cho trẻ khỏi làm
hỏng đồ chơi" (vì thế mà đã có lúc, có nơi, trẻ em chỉ được ngắm đồ chơi bày
trong tủ, chứ không được chơi), mà là người hướng dẫn để các em tự mình phát
hiện và là người làm gương để các em noi theo. Việc giáo dục môi trường dựa
theo nguyên tắc "chơi mà học, học mà chơi", dưới nhiều hình thức, như: chơi các
đồ chơi và trò chơi, nghe kể chuyện và nói cảm nhận của mình, xem hoặc giúp cô
trồng và chăm sóc cây cối, tham quan công viên hoặc vườn thú, vệ sinh cá nhân,...
Từ lứa tuổi tiểu học trở đi, trẻ em đã bắt
đầu làm quen và tiếp nhận các kiến thức
sơ đẳng về khoa học và được nâng cao
dần. Cách giáo dục môi trường ở đây là
Việt Nam môi trường và cuộc sống
"lồng ghép" hoặc "khai thác" những nội dung của các môn học, như: đạo đức,
tiếng Việt, lao động kỹ thuật, tự nhiên - xã hội (ở bậc tiểu học) và sinh học, hóa
học, địa lý (ở bậc phổ thông). Ngoài việc giáo dục nội khóa, các hoạt động ngoại
khóa cũng rất đa dạng và bổ ích, như: xây dựng và duy trì các vườn trường, trồng
cây và giữ gìn vệ sinh trong khuôn viên nhà trường, xây dựng câu lạc bộ môi
trường hoặc câu lạc bộ xanh, các cuộc thi vẽ hoặc tìm hiểu về môi trường, thu thập
và tìm hiểu về cách sử dụng các cây bản địa (nhất là các cây thuốc), tham gia các
chiến dịch vệ sinh môi trường tại địa phương,...
Một số thử nghiệm tại các tỉnh đã được những dự án quốc tế hỗ trợ có kết quả, và
ở một số nơi, các cơ quan quản lý địa phương đã cho phép và hỗ trợ việc mở rộng
mô hình và áp dụng trong cả huyện, như tại huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Dự án do Quỹ SEF tài trợ, cùng với sự phối hợp giúp đỡ của Sở Khoa học, Công
nghệ và Môi trường Thừa Thiên - Huế, Phòng Giáo dục huyện A Lưới đã tổ chức
soạn thảo chương trình, tài liệu, huấn luyện giáo viên cho hơn 22 trường tiểu học
và trung học cơ sở trong huyện thực hiện việc giáo dục môi trường ngoại khóa với
33 tiết mỗi năm, bắt đầu từ năm học 1999 - 2000. Ngoài ra, còn có các hoạt động
khác, như: thi vẽ về môi trường với sự tham gia của hơn 5.000 học sinh phổ thông
cơ sở, thi tìm hiểu cây thuốc địa phương, thi xây dựng "trường xanh - sạch - đẹp",
xây dựng câu lạc bộ xanh, tủ sách tham khảo về giáo dục môi trường.
Chương trình tài trợ các dự án nhỏ của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF/SGP) cũng
tài trợ cho Hội Giáo dục môi trường Hải Dương triển khai Dự án về việc "Xây
dựng Đảo Cò Chi Lăng Nam thành một trung tâm giáo dục môi trường". Thông
qua các lớp tập huấn và các đợt tuyên truyền vận động, chính quyền và nhân dân
địa phương đã tích cực tham gia đóng góp hàng trăm ngày công và các bụi tre để
mở rộng diện tích Đảo Cò được thêm 300m2, trồng thêm 100 khóm tre. Năm
2003, Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường còn hỗ trợ 150 triệu đồng để đắp bờ
chống sạt lở đảo. Hàng nghìn cò, vạc đã trở lại đảo. Dự án đã xây dựng Quy chế
Việt Nam môi trường và cuộc sống
cộng đồng bảo vệ cò và quy chế này đã được Uỷ ban nhân dân xã Chi Lăng Nam
phê duyệt cho thi hành, 100% các hộ dân đã ký cam kết thực hiện. Trung tâm giáo
dục môi trường đã được xây dựng ngay trên bờ hồ với sự trang bị ban đầu của Dự
án về các thiết bị cần thiết và các mẫu động, thực vật thu thập được trong vùng,
làm nơi trưng bày và phục vụ cho việc tham quan, học tập, nghiên cứu. Đặc biệt,
Dự án đã tổ chức biên soạn và giảng dạy thực nghiệm các bài giảng kết hợp giáo
dục môi trường với các môn học, trong đó có 20 bài thuộc chương trình tiểu học
và 40 bài thuộc chương trình trung học cơ sở, nhằm mục tiêu giáo dục môi trường
và đa dạng sinh học, lấy vùng Đảo Cò Chi Lăng Nam làm trường hợp thực hiện,
gần gũi với địa phương. Trên cơ sở ý kiến đóng góp của các hội đồng và hội thảo
khoa học, Sở Giáo dục và Đào tạo đã có công văn cho phép sử dụng các bài soạn
của Dự án làm tài liệu tham khảo của giáo viên trong công tác giáo dục môi
trường. Dự án đã in và phổ biến 200 bộ cho 65 trường học của thành phố Hải
Dương và huyện Thanh Miện. Hiện nay, đã có nhiều học sinh, sinh viên đến tham
quan Đảo Cò và Trung tâm Giáo dục môi trường. Du khách đã có thể đi trên
đường ôtô mới xây dựng, do tỉnh đầu tư, đến thẳng xã. Nơi đây, cả vùng hồ An
Dương với Đảo Cò nổi tiếng, một cảnh quan đặc sắc và cả các tư liệu khoa học về
đa dạng sinh học của vùng đất ngập nước này, đang có triển vọng trở thành một
địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn.
Nói chung, giáo dục môi trường, cùng các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội
của các trường học tại địa phương có vai trò rất quan trọng. Nó không những có
tác động tích cực tới nhân cách và hành vi của trẻ em, những người chủ tương lai,
mà còn có ảnh hưởng lan tỏa tới cộng đồng và xã hội ở địa phương, góp phần tăng
cường sự tham gia tự giác và chủ động của mọi người dân vào sự nghiệp chung về
bảo vệ môi trường.
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Giáo dục môi trường trong xã hội
Hội Khuyến học Việt Nam là một tổ chức xã hội tập hợp những người tự nguyện
phấn đấu cho phong trào toàn dân học tập, toàn dân tham gia làm giáo dục, nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đáng lưu ý
Hội đã thành lập 2.500 tổ chức hội tại các xã phường, chiếm 25% tổng số xã,
phường trong cả nước. Các trung tâm này, tuy có thể được chính quyền địa
phương hỗ trợ với mức độ nào đó, nhưng chủ yếu là do dân tự tổ chức và duy trì,
theo nguyên tắc dân cần gì thì học nấy, trước hết là về sản xuất, cải thiện đời sống,
bảo vệ sức khỏe. Đây cũng là một mô hình tốt, và có thể thông qua đó mà thực
hiện việc giáo dục môi trường trong cộng đồng.
Tỉnh Thái Bình là một trong số các địa phương triển khai mạnh nhất. Cho đến cuối
năm 2002, tại Thái Bình đã có 194 trung tâm học tập cộng đồng trên tổng số 285
phường, xã trong toàn tỉnh. Hiện nay, Quỹ Môi trường Sida đang tài trợ cho Hội
Khuyến học tỉnh một Dự án nhằm xây dựng nâng cao nhận thức môi trường cho
các trung tâm của tỉnh. Hoạt động cụ thể của Dự án là tập huấn cho khoảng 100
người của các huyện, thị để có thể làm báo cáo viên về giáo dục môi trường cho
các trung tâm; biên soạn, in ấn và phân phát các tài liệu giảng dạy, tuyên truyền về
giáo dục môi trường; triển khai trình diễn hai mô hình tại một xã và một phường
về giáo dục môi trường trong cộng đồng với các lớp tập huấn cho khoảng 1.000
người, kết hợp với các hoạt động thiết thực về vệ sinh môi trường, như giữ gìn vệ
sinh công cộng, tổ chức thu gom rác và bao bì đựng thuốc bảo vệ thực vật, xây
dựng hầm biogas, diệt chuột,...
Phong trào bảo vệ môi trường
Các chiến dịch và phong trào bảo vệ môi trường: phát thì dễ, động thì khó!
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Hãy hành động thiết thực hơn, chu đáo hơn, kiên nhẫn hơn và hiệu quả hơn!
Để hưởng ứng các phong trào quốc tế và quốc gia, ngày càng có nhiều chiến dịch
môi trường được tổ chức tại khắp các nơi, nhất là kết hợp với các dịp kỷ niệm, như
Ngày môi trường thế giới, Ngày làm sạch thế giới, Ngày nước quốc tế, Ngày
không sử dụng túi nilông, Ngày không hút thuốc lá,... Các hoạt động thông thường
là míttinh, các bài phát biểu có tính chất giải thích và kêu gọi, tuần hành và biểu
dương lực lượng, kết hợp với những hoạt động cụ thể tại cơ sở, như dọn dẹp vệ
sinh, thu gom rác, trồng cây, xây dựng và sửa sang các giếng nước và nhà vệ sinh.
Rồi kết hợp với đó, hoặc cũng có khi làm riêng rẽ, một chiến dịch được phát động
trong một thời gian nhất định, thông thường ngắn là một tuần (thí dụ tuần lễ nước
sạch), dài thì một tháng (như kiểu tháng an toàn giao thông). Trên các mặt báo,
cũng có những bài viết có liên quan tới môi trường: nói về tình hình và xu thế thế
giới và trong nước, phân tích các mặt lợi hại, đề xuất các giải pháp,... Cũng có khi
có một số hội thảo khoa học với những chủ đề tương tự được tổ chức, nhưng đi
sâu về các khía cạnh khoa học để trình bày và phân tích. Nói chung, những hoạt
động kể trên là cần thiết và có những ảnh hưởng tốt, chủ yếu là bề rộng, vì chúng
góp phần làm thức tỉnh và nâng cao nhận thức của đông đảo công chúng, thúc giục
mọi người tham gia bảo vệ môi trường. Nhưng kinh nghiệm thực tế cho thấy,
chiến dịch mà không được gắn với một phong trào thường xuyên thì khó có thể
được củng cố, duy trì và có được kết quả mong muốn.
Phong trào, vì vậy, là một hình thức vận động rất cần thiết có thể do chính quyền
hoặc một tổ chức xã hội khởi xướng. Phong trào thường có mục tiêu và được cụ
thể hóa bằng các biện pháp với các mức độ khác nhau. Một phong trào tiêu biểu là
phong trào trồng cây, được đích thân Bác Hồ phát động bằng hình thức "Tết trồng
cây" và lời kêu gọi nổi tiếng có tính triết lý và nhân văn sâu sắc, nhưng không khó
hiểu và lại dễ đi vào lòng người "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm
năm trồng người". Phong trào này được thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở bởi các
Việt Nam môi trường và cuộc sống
cấp uỷ đảng và chính quyền, các tổ chức xã hội, người cao tuổi trong cộng đồng,...
đã trở thành thường xuyên trong ngót nửa thế kỷ nay. Mặc dù, có những thời
điểm, phong trào còn có tính hình thức, tỷ lệ cây trồng sống có thể còn thấp,
nhưng nhìn chung trên phạm vi cả nước thì phong trào trồng cây theo lời kêu gọi
của Bác Hồ đã hỗ trợ quan trọng cho các Chương trình lớn của Nhà nước, như
Chương trình 327 trước đây hay Chương trình 5 triệu ha rừng hiện nay, nhằm
không những góp phần nâng cao độ che phủ rừng ở nước ta, mà còn góp phần cải
tạo khí hậu và môi trường ở nhiều vùng, phủ xanh những vùng cát trắng, làm râm
mát những sân trường, những đoạn đường nông thôn, làm xanh hóa các đô thị.
Có không ít phong trào kém hiệu quả: lúc phát động thì trống dong cờ mở, lúc làm
thật thì chỉ được thời gian đầu, về sau xẹp dần, theo mô hình luẩn quẩn "phát -
động - xẹp - phát". Thí dụ như phong trào vận động không vứt rác ra các nơi công
cộng, việc thực hiện đường thông hè thoáng, cuộc vận động tôn trọng luật lệ giao
thông,... Nguyên nhân chính là chưa tuyên truyền vận động sâu rộng và thường
xuyên để góp phần nâng cao nhận thức thực sự và làm thay đổi hành vi ứng xử;
không có tổ chức chủ trì việc đôn đốc, theo dõi phong trào, hoặc có, nhưng tổ chức
này chưa làm tròn trách nhiệm; sự tham gia của cộng đồng, của công chúng còn ít;
thiếu khen chê, thưởng phạt kịp thời, công bằng và thỏa đáng. Cho nên, các chiến
dịch và phong trào muốn thu được hiệu quả tốt thì phải chống bệnh hình thức và
bệnh thành tích.
Vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng
Nhìn chung về mặt xã hội, thông tin đại chúng (sau đây, để ngắn gọn, tạm gọi
chung là báo chí) có vai trò rất quan trọng, vì có thể thông qua các phương tiện
hiện đại, như báo chí, phát thanh, truyền hình, để chuyển tải kịp thời những thông
tin cho xã hội và góp phần to lớn trong việc tạo nên hoặc tác động tới công luận.
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Mặt khác, báo chí cũng có điều kiện đi sát cuộc sống để phản ánh những tình hình
và ý kiến của xã hội tới các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước.
Khung VII.11. CAM KẾT CHO VUI
Tháng 12-2002, cơ quan Kiểm lâm thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum tổ chức hội
nghị quán triệt các quy định về chế độ quản lý động vật hoang dã cho các chủ nhà
hàng, khách sạn ký cam kết "không mua, bán, kinh doanh, tàng trữ, nuôi nhốt, sử
dụng động vật hoang dã và các sản phẩm của chúng". Trong bản cam kết ghi rõ 4
không "không mua, bán, kinh doanh, tàng trữ, nuôi nhốt, sử dụng động vật hoang
dã; không trưng bày, quảng cáo động vật hoang dã và các sản phẩm của chúng;
không để trên bảng hiệu, thực đơn các món ăn từ động vật hoang dã; không kinh
doanh các món ăn từ động vật hoang dã và các sản phẩm của chúng".
Sau khi các chủ nhà hàng, khách sạn "sốt sắng" ký vào bản cam kết nêu trên,
chuyển biến dễ thấy nhất là tờ cam kết khổ 40x60 ấy được các chủ nhà hàng dán
trang trọng ở nơi dễ bắt mắt trong nhà hàng. Nhiều bảng hiệu trước đây ghi
"chuyên phục vụ các món ăn đặc sản rừng" thì nay chữ "rừng" được cạo sơn nham
nhở (chủ nhà hàng chưa kịp thay biển mới), hoặc được thay là "chuyên phục vụ
các món ăn đặc sản của Tây Nguyên". Còn các thực khách vẫn vô tư gọi và
thưởng thức các món ăn ưa thích được chế biến từ động vật hoang dã. Khác chăng,
thực đơn các món ăn được giới thiệu bằng miệng. Sau hơn hai tháng thực hiện,
cam kết cũng chỉ là "cam kết cho vui" như lời một chủ nhà hàng chuyên kinh
doanh các món ăn từ động vật hoang dã.
Nguồn: Nhà báo và Môi trường, số 6, 2003, dẫn tin Thông tấn xã Việt Nam,
Việt Nam môi trường và cuộc sống
ngày 9-3-2003
trong những năm vừa qua, về mặt bảo vệ môi trường, báo chí đã có tác dụng rất
tích cực. Với những lợi thế khác nhau về cách truyền đạt thông tin, báo chí đã góp
phần nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về thiên nhiên và môi trường, về các
chính sách của Nhà nước ta và các hoạt động trong công tác bảo vệ môi trường.
Điều nổi bật và có tác dụng rõ rệt là báo chí đã nêu nhiều vấn đề cụ thể và bức
xúc, có tính phản ánh thực tiễn, kể cả các trường hợp nghiêm trọng, như các vụ
phá rừng, bọn lâm tặc chống trả quyết liệt lực lượng kiểm lâm, các hành vi bao che
hoặc tòng phạm của một số người có chức có quyền ở địa phương, như vụ phá
rừng ở Tánh Linh những năm trước đây, và gần đây nhất, là việc hàng trăm ha
rừng ngập mặn và vành đai sú vẹt bị xóa sổ để trở thành đầm nuôi tôm ở Thái
Bình, Ninh Bình, Quảng Bình,...
Ngoài những báo hàng ngày và các tạp chí chuyên ngành, cũng đã bắt đầu xuất
hiện một số ấn phẩm định kỳ chuyên về môi trường do các tổ chức xã hội-nghề
nghiệp thành lập, như tạp chí "Con đường xanh" của Hội Bảo vệ Môi trường giao
thông vận tải, "Nhà báo và Môi trường", cơ quan ngôn luận của Diễn đàn các nhà
báo môi trường Việt Nam. Đó cũng là một dấu hiệu đáng mừng, vì điều đó sẽ làm
đa dạng hóa báo chí viết về môi trường, nhất là giúp cho độc giả có thể nhìn nhận
các vấn đề môi trường dưới những góc độ khác nhau và tăng cường mối quan hệ
giữa báo chí và công chúng, giữa báo chí và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Khung VII.12. THẰNG HÂM
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Một lần Chổi tre đang trên đường đến công sở. Ngang qua một con phố nhỏ Chổi
tre nhìn thấy một con chuột chết cỡ nửa ký. Người xe đi lại nườm nượp, cố vòng
tránh con vật gớm ghiếc. Chỉ ít lâu nữa, nó sẽ được cán bẹp dí.
Buổi chiều, khi tan sở, tôi trở về nhà qua con đường ấy. Từ xa, vẫn thấy con chuột
chết to đùng. Có phép mầu nào đó đã giúp nó chưa bị xe cán bẹp dí.
Một ông già ngang lưng lôi thôi hàng lô túi là túi. Tôi nhận ra ông đi ăn xin quanh
chợ Xanh. Dáo dác ngó quanh xem có xin được gì không, ông dừng lại chăm chú,
rồi xăm xăm tiến lại phía con chuột. Tôi toan đỗ x