Những năm 70 của thế kỷ XX là thập niên của sự bùng nổ công nghệ sinh
học thực vật, đặc biệt là kỹ thuật nuôi cấy mô và tế bào thực vật. Đây là công cụ
nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học. Trong vòng 30 năm trở lại đây, kỹ thuật
này đã làm nên một cuộc cách mạng lớn trong nhân giống thực vật và hiện nay
người ta đang hướng tới mục tiêu áp dụng kỹ thuật này để sản xuất cây giống
thương mại. Kỹ thuật nuôi cấy mô và tế bào thực vật đã trở thành một phương
pháp nhân giống chuẩn và phổ biến đối với nhiều loại cây trồng như: cây công
nghiệp, cây lâm nghiệp, cây cảnh, cây dược liệu, cây ăn trái và rau xanh. Những
kiến thức về công nghệ nuôi cấy mô và tế bào thực vật ngày càng được củng cố
và có nhiều bước tiến rõ rệt. Với phương pháp này người ta có thể nhân giống rất
nhiều loài cây từ các vùng khí hậu khác nhau trên thế giới mà các phương pháp
nhân giống truyền thống không thể thực hiện được.
14 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 19799 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công nghệ nuôi cấy mô và tế bào thực vật – nhân giống in vitro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8
CHƢƠNG II. CÔNG NGHỆ NUÔI CẤY MÔ VÀ TẾ BÀO THỰC VẬT
– NHÂN GIỐNG IN VITRO
Những năm 70 của thế kỷ XX là thập niên của sự bùng nổ công nghệ sinh
học thực vật, đặc biệt là kỹ thuật nuôi cấy mô và tế bào thực vật. Đây là công cụ
nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học. Trong vòng 30 năm trở lại đây, kỹ thuật
này đã làm nên một cuộc cách mạng lớn trong nhân giống thực vật và hiện nay
người ta đang hướng tới mục tiêu áp dụng kỹ thuật này để sản xuất cây giống
thương mại. Kỹ thuật nuôi cấy mô và tế bào thực vật đã trở thành một phương
pháp nhân giống chuẩn và phổ biến đối với nhiều loại cây trồng như: cây công
nghiệp, cây lâm nghiệp, cây cảnh, cây dược liệu, cây ăn trái và rau xanh. Những
kiến thức về công nghệ nuôi cấy mô và tế bào thực vật ngày càng được củng cố
và có nhiều bước tiến rõ rệt. Với phương pháp này người ta có thể nhân giống rất
nhiều loài cây từ các vùng khí hậu khác nhau trên thế giới mà các phương pháp
nhân giống truyền thống không thể thực hiện được.
1. Giới thiệu sơ lƣợc về công nghệ nuôi cấy mô và tế bào thực vật
1.1. Giới thiệu
Kỹ thuật nuôi cấy mô và tế bào thực vật hay nhân giống in vitro đều là
thuật ngữ mô tả các phương pháp nuôi cấy các bộ phận thực vật (tế bào đơn, mô,
cơ quan) trong ống nghiệm có chứa môi trường dinh dưỡng thích hợp như muối
khoáng, vitamin, đường và các chất điều hòa sinh trưởng thực vật trong điều kiện
vô trùng.
Kỹ thuật nuôi cấy mô và tế bào thực vật cho phép tái sinh chồi hoặc cơ
quan từ các mô như lá, thân, hoa, rễ, củ hoặc đỉnh sinh trưởng. Trước kia người
ta dùng phương pháp này để nghiên cứu các đặc tính cơ bản của tế bào như sự
phân chia, đặc tính di truyền và ảnh hưởng của các hóa chất đối với tế bào và mô
trong quá trình nuôi cấy. Hiện nay, các nhà khoa học sử dụng hệ thống nuôi cấy
mô thực vật để nghiên cứu tất cả các vấn đề có liên quan đến thực vật như sinh lý
học, sinh hoá học, di truyền học và cấu trúc thực vật. Kỹ thuật nuôi cấy mô thực
vật cũng mở rộng tiềm năng nhân giống vô tính đối với các loài cây trồng quan
trọng, có giá trị về mặt kinh tế và thương mại trong đời sống hàng ngày của con
người.
1.2. Lịch sử phát triển của kỹ thuật nuôi cấy mô và tế bào thực vật
Năm 1902, nhà thông thái Haberlandt l n đ u tiên đưa ra ý tưởng cấy mô
của sinh vật ra ngoài cơ thể nhưng ông đã dùng tế bào quá chuyên biệt nên không
thành công.
9
Năm 1934, White đã thành công trong việc phát hiện ra sự sống vô hạn
của việc nuôi cấy tế bào rễ cà chua.
Năm 1964, Ball là người đ u tiên tìm ra m m rễ từ việc nuôi cấy chồi
ngọn. Ông đã thành công trong việc chuyển cây non của cây sen cạn từ môi
trường nuôi cấy tối thiểu. Tuy nhiên, việc nhân giống cây vẫn chưa hoàn chỉnh.
Sau đó nhiều nhà nghiên cứu đã khám phá ra những thành ph n dinh dưỡng quan
trọng c n thiết cho sự phát triển của các tế bào được nuôi cấy.
Năm 1951, Skoog và Miller đã phát hiện ra các hợp chất có thể điều khiển
sự nhân chồi.
Năm 1962, Murashige và Skoog đã cải tiến môi trường nuôi cấy đánh dấu
một bước tiến trong kỹ thuật nuôi cấy mô. Môi trường của họ đã được dùng làm
cơ sở cho việc nuôi cấy nhiều loại cây và vẫn còn được sử dụng rộng rãi cho đến
nay.
Năm 1960 – 1964, Morel cho rằng có thể nhân giống vô tính lan bằng
nuôi cấy đỉnh sinh trưởng. Từ kết quả đó, lan được xem là cây nuôi cấy mô đ u
tiên được thương mại hóa. Từ đó đến nay, công nghệ nuôi cấy mô và tế bào thực
vật đã được phát triển với tốc độ nhanh trên nhiều cây khác và được ứng dụng
thương mại hóa.
1.3. Tầm quan trọng của kỹ thuật nuôi cấy mô và tế bào thực vật
Phương pháp nuôi cấy mô và tế bào thực vật có ý nghĩa vô cùng to lớn đối
với việc nghiên cứu lý luận sinh học cơ bản, đồng thời đóng góp trực tiếp cho
thực tiễn sản xuất và đời sống.
1.3.1. Về mặt lý luận sinh học cơ bản
Nuôi cấy mô đã mở ra khả năng to lớn cho việc tìm hiểu sâu sắc bản chất
của sự sống. Thông qua nuôi cấy mô và tế bào, có thể tiến hành so sánh đặc tính
cơ thể với các hợp ph n của chúng khi tách rời khỏi cơ thể, từ đó rút ra mối
tương quan giữa các bộ phận trong cây. Thực tế đã cho phép tách và nuôi cấy
trước hết là mô phân sinh rồi từ đó cho ra nhóm tế bào không chuyên hoá gọi là
mô sẹo, từ mô sẹo có thể kích thích để tái sinh cây hoàn chỉnh. Đây là ưu thế mà
các nhà sinh lý, hoá sinh và di truyền học dễ dàng sử dụng trong công việc của
mình.
Trong một cơ thể rất khó phân biệt được từng giai đoạn một cách cụ thể
và chính xác theo chu kỳ phát triển của cá thể. Phương pháp nuôi cấy mô có thể
khắc phục được khó khăn trên và dễ dàng tạo ra các bước phát sinh hình thái
được phân biệt một cách rõ rệt. Điều này tạo thuận lợi cho công tác nghiên cứu
về các quy luật sinh trưởng, phát triển cùng mối quan hệ giữa chúng với bên
ngoài. Từ đó có thể tìm ra các mấu chốt thúc đẩy sự phát triển của cây trồng theo
10
hướng mong muốn. Bằng phương pháp nuôi cấy mô và tế bào, có thể tiến hành
nghiên cứu mối quan hệ giữa ký sinh và ký chủ. Như vậy, rõ ràng nhiều vấn đề
về bệnh lý sẽ được giải quyết một cách cơ bản. Từ đó, tìm ra những cơ chế miễn
dịch của thực vật, giúp cho việc phòng bệnh cho cây tốt hơn, đỡ tốn kém hơn.
1.3.2. Về mặt thực tiễn sản xuất
Phương pháp nuôi cấy mô được sử dụng để bảo quản và nhân nhanh các
giống cây quý, có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, phương pháp này ngày càng phổ
biến trong công tác giống cây trồng. Bằng phương pháp nuôi cấy mô, chỉ sau một
thời gian ngắn có thể tạo được một sinh khối lớn có hoạt chất: sinh khối được tạo
ra vẫn giữ nguyên được thuộc tính, nghĩa là vẫn giữ được khả năng tổ hợp các
chất thứ cấp như alkaloid, glycosid, các steroid dùng trong y học, chất dính dùng
trong công nghiệp thực phẩm, những chất kìm hãm sinh trưởng của vi khuẩn
trong nông nghiệp.
2. Các bƣớc nhân giống in vitro
2.1. Chọn lựa và khử trùng mẫu cấy
Mẫu cấy là mảnh mô thực vật được đặt vào trong môi trường nuôi cấy. Để
tiến hành nuôi cấy in vitro thành công, khi lựa chọn mô cấy c n lưu ý đến tuổi
sinh lý của cơ quan được dùng làm mẫu cấy, vụ mùa lấy mẫu, chất lượng của cây
lấy mẫu, kích thước và vị trí lấy mẫu đó. Mẫu cấy sau khi chọn lựa được rửa sạch
bằng xà phòng và khử trùng bề mặt bằng các chất khử trùng hóa học như calcium
hypochloride, sodium dichloroisocyanurate, chlorur thủy ngân,...
2.2. Tạo thể nhân giống in vitro
Mẫu được nuôi cấy trên môi trường dinh dưỡng thích hợp để tạo thể nhân
giống in vitro. Có 2 thể nhân giống in vitro là thể chồi và thể cắt đốt. Tạo thể
nhân giống in vitro phụ thuộc vào đặc điểm nhân giống ngoài tự nhiên của cây
trồng. Đối với những loài không có khả năng nhân giống, người ta thường nhân
giống bằng cách tạo cụm chồi từ mô sẹo. Trong môi trường nhân giống thường
bổ sung cytokinin, GA3 và các chất hữu cơ khác.
Hình 2.1. Nhân giống cây trồng bằng phương pháp nuôi cấy mô
11
2.3. Nhân giống in vitro
Đây là giai đoạn quan trọng trong nhân giống cây trồng bằng phương pháp
nuôi cấy mô và tế bào thực vật nhằm mục đích tăng sinh khối thể nhân giống.
Vật liệu nuôi cấy là những thể chồi, môi trường nuôi cấy thường giống môi
trường tạo thể chồi, đôi khi nồng độ chất sinh trưởng giảm thấp cho phù hợp với
quá trình nhân giống kéo dài. Điều kiện nuôi cấy thích hợp giúp cho quá trình
tăng sinh diễn ra nhanh. Cây nhân giống in vitro ở trạng thái trẻ hóa và được duy
trì trong thời gian dài.
Hình 2.2. Các bước nhân giống in vitro
2.4. Tái sinh cây in vitro hoàn chỉnh
Đây là giai đoạn tạo cây con hoàn chỉnh có đ y đủ thân, lá và rễ để chuẩn
bị chuyển ra vườn ươm. Cây con phải khỏe mạnh để nâng cao sức sống khi ra
môi trường bình thường. Các chất có tác dụng tạo chồi được loại bỏ, thay vào đó
là các chất kích thích quá trình tạo rễ. Điều kiện nuôi cấy g n với điều kiện tự
nhiên bên ngoài, một bước làm thích nghi trước khi tách ra khỏi điều kiện in
vitro. Sự ra rễ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: hàm lượng auxin nội sinh, tỷ lệ C/N,
ánh sáng, sự trẻ hóa của mẫu, kiểu di truyền. Người ta thường bổ sung auxin để
kích thích quá trình ra rễ in vitro.
2.5. Chuyển cây con in vitro ra vườn ươm
Cây con đã ra rễ được lấy khỏi ống nghiệm, rửa sạch agar và được đặt
trong chậu nơi có bóng râm, độ ẩm cao, cường độ chiếu sáng thấp,... Sau khoảng
2 tu n, cây đã bắt đ u thích nghi với điều kiện bên ngoài, lúc này có thể tăng
cường độ chiếu sáng và hạ độ ẩm. Đây là giai đoạn rất quan trọng trong quy trình
nhân giống vô tính vì cây con thường bị chết do sự khác biệt về điều kiện sống
giữa in vitro và ex vitro. Cây in vitro được nuôi cấy trong điều kiện ổn định dinh
12
dưỡng, ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm nên khi chuyển ra đất, với điều kiện tự nhiên
hoàn toàn khác hẳn như dinh dưỡng thấp, ánh sáng có cường độ mạnh, nhiệt độ
cao, độ ẩm thấp, cây con dễ dàng bị stress, dễ mất nước và mau héo dẫn đến hiện
tượng chết. Để tránh tình trạng này, vườn ươm cây cấy mô phải mát, cường độ
chiếu sáng thấp, độ ẩm cao. Cây con thường được cấy trong luống ươm cây có cơ
chất dễ thoát nước, tơi xốp, giữ độ ẩm, trong những ngày đ u tiên c n phủ nylon
để giảm sự thoát hơi nước ở lá (thường 7-10 ngày kể từ ngày cấy). Rễ được tạo
ra trong quá trình nuôi cấy mô sẽ d n d n lụi đi và rễ mới xuất hiện, cây con
thường được xử lý ra rễ bằng cách ngâm rễ hay phun lên lá các hợp chất kích
thích ra rễ ở nồng độ thấp để rút ngắn thời gian ra rễ.
3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình nuôi cấy mô thực vật
3.1. Ảnh hưởng của mẫu cấy
Vật liệu nuôi cấy là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự
sinh trưởng và phát triển in vitro:
Kiểu di truyền
Khả năng tái sinh của thực vật rất đa dạng. Những cây hai lá m m thông
thường có khả năng tái sinh mạnh hơn cây một lá m m và cây hạt tr n rất khó tái
sinh (trừ khi chúng còn non). Trong một số cây hai lá m m thì Solanaceae,
Begoniaceae, Crassulaceae, Gesneriaceae và Cruciferae là những họ thực vật dễ
tái sinh nhất. Nếu một loài dễ tái sinh cơ quan trong môi trường tự nhiên thì
chúng h u như dễ tái sinh in vitro. Cũng có những trường hợp ngoại lệ như
những đoạn cắt từ lá của cây Kalanchoe farinacea h u như không có khả năng
hình thành chồi bất định in vivo nhưng có thể thực hiện trong điều kiện in vitro,
điều này có thể do sự hấp thu các chất điều hòa sinh trưởng có trong môi trường
nuôi cấy.
Tuổi của cây
Các mô phôi thường có khả năng tái sinh cao do đó ở ngũ cốc người ta
thường dùng phôi và hạt làm vật liệu cấy mô. Khi cây già đi, khả năng tái sinh
của chúng cũng giảm theo và các bộ phận của cây non dễ tái sinh hơn như trong
trường hợp cây bụi. Khi mô phân sinh và chồi đỉnh được tách khỏi cây mẹ thì
chúng vẫn giữ những đặc tính già hay non trong điều kiện in vitro tùy vào điều
kiện ban đ u. Đôi khi qua nhiều l n cấy chuyền, mô phân sinh già từng bước
được trẻ hóa do tăng khả năng tái sinh và phân chia tế bào. Điều này được chứng
minh trên những đối tượng như nho (Pinus vinifera), táo tây (Malus sylvestris),
cây tuyết tùng (Cryptomeria japonica).
Tuổi của mô và cơ quan
Những mô còn non và mềm thường dễ nuôi cấy hơn những mô cứng
nhưng cũng có nhiều trường hợp ngoại lệ. Các mẫu cấy từ cuống lá còn non tái
13
sinh tốt hơn những mẫu cấy từ cuống lá già do cơ quan của chúng già hơn nên
khả năng tái sinh và phân chia tế bào giảm. Khả năng tái sinh của những loài
khác nhau tăng lên trong suốt giai đoạn ra hoa: các bộ phận của phát hoa còn non
đôi khi tái sinh rất mạnh, ví dụ như cây cải âm (Lunaria annua), cây báo xuân
(Primula obconica).
Tình trạng sinh lý
Tình trạng sinh lý ảnh hưởng mạnh đến khả năng tái sinh và phân chia tế
bào in vitro. Thông thường các bộ phận của cây trong giai đoạn sinh dưỡng dễ tái
sinh hơn trong giai đoạn sinh sản. Các mẫu cấy từ vảy của cây huệ tây ở giai
đoạn sinh dưỡng tái sinh tốt hơn những mẫu cấy ở giai đoạn sinh sản. Các chồi
của cây trong giai đoạn ngủ đông khó nuôi cấy in vitro hơn chồi của những cây
đã vượt qua được giai đoạn này.
Vị trí của mẫu cấy trên cây
Ever (1984) đã khảo sát sự ảnh hưởng của vị trí mẫu cấy lên sự sinh
trưởng và phát triển in vitro sau khi tách mẫu ở cây lãnh sam (Pseudotsuga
menziesii), ông nhận thấy những chồi ban đ u được tách từ vị trí thấp trên cây
phát triển trong môi trường in vitro tốt hơn, và chồi gốc tăng trưởng nhanh hơn
chồi nách. Sự hình thành các giả hành bất định của mẫu cấy lan dạ hương được
tách ra từ ph n gốc của vảy hành tốt hơn từ ph n đỉnh. Điều đáng lưu ý là những
mô sẹo phát sinh từ những mẫu cấy có nguồn gốc từ những ph n khác nhau của
cây như rễ, chồi, cuống lá đều có phản ứng in vitro giống nhau.
Kích thước mẫu cấy
Các cấu trúc nhỏ như tế bào, cụm tế bào và mô phân sinh khó cảm ứng để
tăng trưởng hơn những cấu trúc lớn như thân, lá, củ. Các ph n được tách rời khỏi
cây tự nó cung cấp chất dinh dưỡng và hormone, do đó mẫu cấy có kích thước
càng lớn càng dễ tái sinh và phát triển. Các bộ phận của cây có chứa nhiều chất
dinh dưỡng dự trữ như củ, thân hành thường dễ tái sinh trên môi trường in vitro
hơn những cơ quan ít chất dự trữ. Đối với những mẫu bị cắt, ph n trăm bề mặt bị
tổn thương cũng ảnh hưởng đến khả năng tái sinh.
Vết thương
Sự tổn thương trên bề mặt mẫu cấy đóng vai trò quan trọng trong sự tái
sinh mẫu cấy. Bề mặt tổn thương tăng lên làm gia tăng sự hấp thu chất dinh
dưỡng và các chất điều hòa đồng thời ethylene được tạo ra nhiều hơn. Ngoài ra,
có thể tăng cường sự hình thành rễ bất định bằng vết thương.
Phương pháp cấy
Các mẫu cấy có thể được đặt trên môi trường theo nhiều cách khác nhau:
có cực (thẳng đứng với ph n gốc cắm xuống môi trường) hoặc không có cực
(cắm ph n ngọn xuống môi trường). Chồi và rễ thường tái sinh dễ và nhanh khi
mẫu được cấy không cực. Mẫu tái sinh tốt khi được cung cấp đ y đủ oxy nhưng
14
những nhân tố khác cũng đóng vai trò quan trọng. Ph n gốc của mẫu cấy không
cực có các chất dự trữ không có khả năng khuếch tán vào trong agar do nó không
tiếp xúc với môi trường. Như ở trường hợp tất cả các cây thuộc họ
Amaryllidaceae, sự tái sinh chỉ xảy ra ở ph n gốc của vảy hành, do đó phương
pháp cấy không cực dẫn đến sự hình thành thân hành bất định tốt hơn phương
pháp cấy có cực.
3.2. Ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy
Một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng và phát
sinh hình thái của tế bào và mô thực vật trong nuôi cấy là thành ph n môi trường.
Thành ph n này thay đổi tuỳ theo loài và bộ phận nuôi cấy. Đối với cùng một
mẫu cấy nhưng tùy theo mục đích thí nghiệm mà thành ph n môi trường cũng
thay đổi. Môi trường còn thay đổi tùy theo giai đoạn phân hóa của mẫu cấy. Tuy
nhiên, tất cả các môi trường nuôi cấy đều bao gồm năm thành ph n: khoáng đa
lượng, khoáng vi lượng, vitamin, đường (nguồn carbon) và các chất điều hòa
sinh trưởng thực vật.
Khoáng đa lƣợng: nhu c u khoáng của mô, tế bào thực vật tách rời không
khác nhiều so với cây trồng trong điều kiện tự nhiên. Các nguyên tố đa lượng c n
phải cung cấp là N, P, K, Ca, Mg và Fe.
Khoáng vi lƣợng: nhu c u khoáng vi lượng trong nuôi cấy mô thực vật in
vitro là lĩnh vực còn ít được nghiên cứu. Trước đây, khi kỹ thuật nuôi cấy mô
mới ra đời, người ta không nghĩ đến việc bổ sung khoáng vi lượng vào môi
trường nuôi cấy. Các thí nghiệm lúc đó thành công là do agar và hoá chất dùng
để pha môi trường không tinh khiết mà có lẫn một số nguyên tố vi lượng cung
cấp ph n nào cho môi trường nuôi cấy. Các nguyên tố vi lượng c n cung cấp cho
tế bào là: Mn, Zn, Cu, B, Co, I, Mo…
Carbon và nguồn năng lƣợng: trong nuôi cấy in vitro, nguồn carbon giúp
mô và tế bào thực vật tổng hợp nên các chất hữu cơ để tế bào phân chia, tăng
sinh khối không phải từ quá trình quang hợp mà chính là nguồn carbon bổ sung
vào môi trường dưới dạng đường. Hai dạng đường thường gặp nhất là glucose và
sucrose. Các nguồn carbonhydrate khác cũng được tiến hành thử nghiệm như
lactose, galactose, rafinose, maltose và tinh bột nhưng các carbonhydrate này có
hiệu quả kém hơn so với glucose và sucrose. Sucrose là một nguồn carbon quan
trọng đối với mô và tế bào nuôi cấy. Nồng độ sucrose ban đ u có thể ảnh hưởng
đến một số tham số nuôi cấy như tốc độ tăng trưởng và sản lượng hợp chất thứ
cấp trong tế bào nuôi cấy.
Vitamin: thông thường thực vật tổng hợp các vitamin c n thiết cho sự tăng
trưởng và phát triển của chúng. Chúng c n vitamin để xúc tác các quá trình biến
dưỡng khác nhau. Khi tế bào và mô được nuôi cấy in vitro thì một vài vitamin trở
15
thành yếu tố giới hạn cho sự phát triển của chúng. Các vitamin thường được sử
dụng nhiều nhất trong nuôi cấy mô là: thiamine (B1), acid nicotinic, pyridoxine
(B6) và myo-inositol.
Các chất điều hòa sinh trƣởng thực vật: có 5 nhóm chất điều hoà quan
trọng trong nuôi cấy mô thực vật: auxin, gibberellin, cytokinin, abscisic acid và
ethylen. Miller là người đ u tiên nhận thấy tỉ lệ auxin/cytokinin xác định dạng
phân hoá cơ quan của tế bào thực vật nuôi cấy. Cả auxin và cytokinin đều được
bổ sung vào môi trường nuôi cấy để kích thích sự phát sinh hình thái và tỷ lệ
hormone sử dụng để kích thích sự tạo chồi hay tạo rễ không giống nhau.
Auxin tự nhiên là một hợp chất tương đối đơn giản: indol-3-acetic acid
(IAA). Các chất có cấu trúc g n giống IAA và có cùng vai trò với IAA trong vài
cơ quan đều được gọi là auxin (như IBA, NAA, 2,4-D, 2,4,5-T và phenoxyaxetic
acid). Auxin phối hợp với cytokinin giúp sự tăng trưởng chồi non và khởi phát sự
tạo mới mô phân sinh ngọn chồi từ nhu mô. Tuy nhiên, ở nồng độ cao, auxin cản
trở sự phát triển của các phát thể chồi vừa được thành lập hay các chồi nách (các
chồi ở trạng thái tiềm sinh). Auxin ở nồng độ cao kích thích sự tạo sơ khởi rễ
(phát thể non của rễ), nhưng cũng cản trở sự tăng trưởng của các sơ khởi này.
Trong sự tạo rễ, auxin c n phối hợp với các vitamine (như thiamine mà rễ không
tổng hợp được), amino acid (như arginin), và nhất là các hợp chất ortho-
diphenolic (như cafeic acid, chlorogenic acid).
Cytokinin là một loại hormone thực vật kích thích tế bào phân chia. Các
hợp chất này xuất phát từ purine adenin, một trong các base của DNA và RNA.
Hợp chất cytokinin đ u tiên được khám phá là kinetin, tiếp theo là zeatin – một
hợp chất có trong ph n lớn thực vật và vài vi khuẩn, cấu trúc g n giống kinetin
nhưng hoạt tính cao hơn gấp 10 l n. Sau zeatin, hơn 30 cytokinin khác nhau đã
được cô lập. Ngày nay, người ta gọi cytokinin để chỉ một nhóm hợp chất, thiên
nhiên hay nhân tạo, có đặc tính sinh lý giống kinetin. Nhiều chất tổng hợp có
hoạt tính cytokinin, chúng đều là các aminopurin được thay thế ở vị trí thứ 6, thí
dụ như BA. Cytokinin kích thích sự phân chia tế bào với điều kiện có auxin.
Cytokinin tác động trên cả hai bước của sự phân chia tế bào: phân nhân và phân
bào. Trong nuôi cấy các mô nghèo cytokinin (mô lõi thuốc lá, vỏ rễ đậu), auxin
kích thích sự phân đôi nhiễm sắc thể, thậm chí tạo tế bào hai nhân, nhưng không
có sự phân vách; sự phân vách chỉ xảy ra khi có cytokinin ngoại sinh. Cytokinin
giúp sự gia tăng kích thước tế bào và sinh tổng hợp protein. Trong thân và rễ,
cytokinin cản sự kéo dài nhưng kích thích sự tăng rộng tế bào lá trưởng thành.
Trong các nghiên cứu nuôi cấy mô thực vật, tỷ lệ Auxin/Cytokinin (A/C)
là một yếu tố rất quan trọng: A/C cao giúp sự tạo rễ, A/C thấp giúp tạo chồi. Như
vậy, cytokinin hỗ trợ auxin trong tăng trưởng nhưng đồng thời cũng có sự đối
16
kháng giữa auxin (giúp tạo rễ) và cytokinin (giúp tạo chồi); sự cân bằng giữa hai
kiểu hormone này là một trong những yếu tố kiểm soát sự phát triển.
Hình 2.3. Công thức của một số chất điều hòa sinh trưởng thực vật
Ngoài năm thành ph n cơ bản trên, người ta còn bổ sung một số chất hữu
cơ có thành ph n xác định (amino acid, EDTA,…) và một số chất có thành ph n
không xác định như nước dừa, dịch chiết nấm men,… vào môi trường nuôi cấy.
Các hợp chất h