Tóm tắt
Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân 1975 đánh dấu kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước
của nhân dân Việt Nam. Sự kiện này đã mở ra thời kì mới của dân tộc Việt Nam – thời kì đất nước được
độc lập, thống nhất. Công nhân Sài Gòn – Gia Định đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của
dân tộc. Công nhân Sài Gòn – Gia Định thực hiện tốt, phối hợp với nhân dân bảo vệ trang thiết bị, hồ sơ
tại nhà máy, xí nghiệp hạn chế sự phá hoại của địch. Họ đã đảm bảo các hoạt động của nhà máy (nhà
máy điện và nước) diễn ra bình thường sau khi Sài Gòn giải phóng.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công nhân Sài Gòn – Gia Định góp phần vào thắng lợi Đại thắng Mùa Xuân 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8(33) - Thaùng 10/2015
89
Công nhân Sài Gòn – Gia Định góp phần vào thắng lợi
Đại thắng Mùa Xuân 1975
Sai Gon – Gia Dinh worker’s contributions for The great victory
in the spring of 1975
ThS. Đỗ Cao Phúc
Trường Đại học Sài Gòn
M.A. Do Cao Phuc
Sai Gon University
Tóm tắt
Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân 1975 đánh dấu kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước
của nhân dân Việt Nam. Sự kiện này đã mở ra thời kì mới của dân tộc Việt Nam – thời kì đất nước được
độc lập, thống nhất. Công nhân Sài Gòn – Gia Định đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của
dân tộc. Công nhân Sài Gòn – Gia Định thực hiện tốt, phối hợp với nhân dân bảo vệ trang thiết bị, hồ sơ
tại nhà máy, xí nghiệp hạn chế sự phá hoại của địch. Họ đã đảm bảo các hoạt động của nhà máy (nhà
máy điện và nước) diễn ra bình thường sau khi Sài Gòn giải phóng.
Từ khóa: công nhân, Sài Gòn, chiến dịch Hồ Chí Minh...
Abstract
The Ho Chi Minh Campaign Spring 1975 marked the end of 21 year resistance against the US for
national salvation of Viet Nam. This event had opened the new age for Vietnamese people –the period of
the national independence and unity. Sai Gon – Gia Dinh worker’s had great contributions for the victory
of the nation. Workers in Sai Gon – Gia Dinh had cooperation dramatically with people to protect the
equipments, factory records, and enterprises; to limit the enemy sabotages. They guaranteed the operation
of the plants (power station and waterworks) working normally when Sai Gon was liberated.
Key words: workers, Sai Gon, The Ho Chi Minh Campaign
1. Đặt vấn đề
Sài Gòn là thủ đô của Việt Nam cộng
hòa đồng thời là trung tâm kinh tế, quân sự,
chính trị, văn hóa lớn nhất của miền Nam
(1954-1975). Nơi đây tập trung cơ quan
chính quyền trung ương, các tổ chức đảng
phái chính trị, bộ máy chỉ đạo chiến tranh
xâm lược của Mỹ và Việt Nam cộng hòa.
Trong thời kì Pháp tiến hành khai thác
thuộc địa thì Sài Gòn được biết đến là một
trong những nơi hình thành và tập trung
đông đảo lực lượng của giai cấp công nhân
Việt Nam. Sau Hiệp định Giơnevơ
(Genève) được kí kết vào năm 1954, Mỹ
thay chân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh
xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới ở
miền Nam Việt Nam. Đội ngũ công nhân
Sài Gòn trong giai đoạn đầu chiếm đông
đảo do áp lực chiến tranh, diễn ra quá trình
di dân lớn vào các đô thị, trong đó đông đảo
nhất là Sài Gòn - Gia Định. Đội ngũ công
nhân đông đảo ở Sài Gòn - Gia Định bị bóc
90
lột nặng nề và có tinh thần đấu tranh vì
quyền lợi giai cấp và có lòng yêu nước, giữ
vai trò trung tâm trong các cuộc đấu tranh
chính trị ở đây. Dưới ảnh hưởng của Đảng
và sự giác ngộ cách mạng, công nhân Sài
Gòn - Gia Định đã có nhiều công hiến góp
phần vào thắng lợi của kháng chiến chống
Mỹ cứu nước trong giai đoạn 1954-1975.
2. Vài nét về tình hình công nhân
Sài Gòn
Trong những năm đầu của chiến tranh
Việt Nam, do quá trình đô thị hóa Sài Gòn
- Gia Định tăng nhanh cùng với việc xây
dựng các cơ sở vật chất, căn cứ quân sự,
đội ngũ công nhân Sài Gòn - Gia Định phát
triển nhanh chóng, thành phần xuất thân
của công nhân chủ yếu là tầng lớp nông
dân, bên cạnh đó còn có thợ thủ công, dân
nghèo thành thị, tiểu thương, tiểu chủ bị
phá sản, công chức mất việc, những học
sinh là con em công nhân và các tầng lớp
lao động khác ở thành thị vì gia đình nghèo
không có điều kiện đi học nên phải đi làm
sinh sống [9]. Đời sống của công nhân gặp
nhiều khó khăn, bị bóc lột của một số bộ
phận giới chủ và o ép bởi chính sách đàn
áp của cầm quyền.
Tuy nhiên, công nhân Sài Gòn vẫn
nung nấu tinh thần đấu tranh vì quyền lợi
dân sinh, dân chủ. Cuộc đấu tranh của công
nhân Sài Gòn - Gia Định càng hàm chứa
đấu tranh chính trị, đấu tranh yêu nước
chống lại chiến tranh xâm lược và đòi
thống nhất đất nước.
Thành phố Sài Gòn là nơi tập trung số
lượng dân cư đông đảo ở miền Nam, nơi có
lực lượng công nhân công nghiệp (vốn có
mối quan hệ gần gũi với nông dân vùng
nông thôn Nam Bộ và với công nhân các
đồn điền cao su). Công nhân Sài Gòn có
truyền thống đấu tranh yêu nước liên tục
trong suốt chiều dài lịch sử. Trong thời
gian diễn ra cuộc chiến tranh Việt Nam,
Thành ủy Sài Gòn đã có sự nhạy bén trong
việc thâm nhập, giác ngộ và lôi cuốn đội
ngũ công nhân trong các cuộc đấu tranh
yêu nước của nhân dân Sài Gòn - Gia Định
chống Mỹ và tay sai.
3. Công nhân Sài Gòn trong Đại Thắng
Mùa Xuân 1975
Thất bại trên chiến trường miền Nam
trong năm 1972 và thất bại trong tập kích
không quân ở miền Bắc cuối tháng 12 năm
1972, buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán và
kí kết Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm
1973. Dưới ảnh hưởng của sự kiện này,
phong trào đấu tranh của công nhân Sài
Gòn - Gia Định đã có những bước chuyển
biến mới trước tình hình chính trị miền
Nam. Được sự chỉ đạo của Ban Công vận,
Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, công nhân
tiếp tục các cuộc đấu tranh chính trị chuẩn
bị lực lượng ủng hộ cách mạng.
Trước những thất bại nặng nề dẫn tới
nguy cơ tan rã của chính quyền Sài Gòn,
đầu tháng 4-1975, Đảng ủy của Ban công
vận nội thành Sài Gòn đã tích cực chuẩn bị
kế hoạch khởi nghĩa của công nhân ở các
vùng địa bàn chiến lược. Ngày 12.4.1975,
Ban Thường vụ Thành ủy ra chỉ thị hướng
dẫn “những việc cần làm ngay trong các
giai đoạn: trước, trong và sau khi thành
phố được giải phóng”. Chỉ thị khẳng định:
“Hiện nay chúng ta đang ở thời kỳ trực tiếp
cách mạng thành phố, là giai đoạn tổng
công kích, tổng khởi nghĩa để giành toàn
bộ chính quyền về tay nhân dân”. “Thời cơ
20 năm mới có một lần”[4]. Nghị quyết
Đảng yêu cầu công nhân Sài Gòn - Gia
Định chuẩn bị lực lượng khi chiến dịch Hồ
Chí Minh diễn ra. Chấp hành nghị quyết
đó, theo chủ trương của Ban Công vận thì
lực lượng công nhân sẽ tham gia khởi
nghĩa chủ yếu là ở khu phố, còn một bộ
phận có nhiệm vụ chiếm lĩnh và bảo vệ các
xí nghiệp, nhà máy không cho địch phá
hoại. Để quán triệt tinh thần này cho công
nhân, Đảng ủy của Ban công vận nội thành
91
Sài Gòn đã vạch rõ phương hướng khởi
nghĩa: thứ nhất, trong trường hợp khi đại
quân ta bất thần tấn công vào thành phố,
địch không kịp thiết quân luật thì công
nhân đồng loạt nổi dậy chiếm lĩnh xí
nghiệp và bằng bất cứ giá nào cũng phải
bảo vệ cho kì được nhà máy, không để địch
có thời gian phá hoại; thứ hai, đề phòng
tình hình địch có thể thiết quân luật trước
khi quân ta nổ súng tấn công, công nhân
không thể tới xưởng được, thì ngoài nhiệm
vụ phải khởi nghĩa ở đường phố, còn cần
phải bố trí sẵn sàng một lực lượng công
nhân có mặt thường trực ở xí nghiệp để có
thể vừa chiếm lĩnh vừa bảo vệ nhà máy,
chống địch ngoan cố phá hoại [9].
Tiếp nhận được văn bản chỉ đạo của
Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, ngày
10.4.1975, Liên hiệp Công đoàn Gia Định -
Thủ Đức ra lời kêu gọi: “Anh chị em công
nhân lao động hãy dũng cảm tiến lên, đoàn
kết lại, phất cao ngọn cờ tiên phong, cầm
búa dao đánh đổ ngụy nguyền, giành lại
cơm áo tự do” [4]. Trên phương hướng
này, từ sau ngày 12.4.1975 tại nhiều nhà
máy, công nhân đã có kế hoạch khởi nghĩa,
bảo vệ nhà máy, kho tàng điện nước. Ngày
26.4.1975 chiến dịch Hồ Chí Minh chính
thức bắt đầu, đến chiều thì Ban Công vận
Sài Gòn - Gia Định phổ biến lệnh tổng
khởi nghĩa cho tất cả các cơ sở và tiến hành
kiểm tra việc chuẩn bị chống địch phá hoại
ở các nhà máy điện, nước Thủ Đức
Tại Thủ Đức, nơi có những cơ sở trọng
điểm chiến lược như nhà máy điện, nhà máy
nước và một số nhà máy quan trọng khác,
mặc dù địch ra sức kèm kẹp, nhưng Ban
Công vận quận đã xây dựng được cơ sở
Đảng và nòng cốt bí mật, đồng chí Nguyễn
Văn Muốn (đảng viên hoạt động tại chỗ)
được chỉ thị của Ban Công vận quận do
đồng chí Nam Đô truyền đạt là đề phòng
địch phá hoại nhà máy trước khi rút chạy
[5]. Trong hai ngày 27 và 28 tháng 4, nòng
cốt công nhân đã lập đội bảo vệ nhà máy.
Hàng trăm công nhân và kỹ sư liên tục bám
giữ máy, không cho địch phá, bảo đảm cung
cấp đầy đủ nước cho thành phố cả nước và
sau khi giải phóng. Ngay trong ngày
30.4.1975, Trung đoàn đặc công 116 quân
giải phóng đến nơi, được công nhân đón
tiếp nồng nhiệt. Kíp công nhân trực máy
vẫn làm việc bình thường để có thể đảm bảo
cho điện cung cấp cho toàn thành phố.
Tại nhà máy điện Chợ Quán, ngay lúc
chính quyền Sài Gòn thi hành thiết quân
luật, công nhân đã thay phiên nhau đi sửa
chữa đường dây, ổn định dòng điện để có
thể đảm bảo khi Quân giải phóng tiến vào.
Bên cạnh đó, công nhân phát động kêu gọi
binh lính chính quyền Sài Gòn quay về với
chính nghĩa, ủng hộ hành động nổi dậy của
công nhân. Riêng nhà máy dệt Liên
Phương, đại đội tự vệ bí mật của công nhân
được thành lập gồm 20 người. Sáng 30.4,
công nhân treo cờ Giải phóng trước cổng
nhà máy, in truyền đơn, dán khẩu hiệu
“Chính quyền về tay nhân dân”, “Công
nhân làm chủ nhà máy”
Công nhân xưởng Ba Son tháo gỡ hết
chất nổ địch gài lại, bảo vệ được nguyên
vẹn nhà máy khi quân giải phóng tiến vào.
Công nhân của các hãng Esso, Shell, thành
lập các Ủy ban công nhân võ trang bảo vệ
kho xăng Nhà Bè. Công nhân các xí nghiệp
Vimytes, Sicovina, Vinatexco, Biopharma
và hàng loạt hãng, xưởng khác bất chấp
công an, mật vụ, đã nổi dậy chiếm xưởng
bảo vệ máy móc. Các cơ sở cách mạng và
quần chúng nổi dậy chiếm lĩnh, cắm cờ tại
trụ sở khóm 2, phường Huyện Sĩ, ngã ba
Thủ Khoa Huân, đường Lê Thánh Tôn, chợ
Bến Thành, cư xá Đô Thành, ty cảnh sát
quận 3, Sở văn hóa... Một bộ phận đã giữ
gìn và trao lại nguyên vẹn cho cách mạng
toàn bộ Phòng báo chí Phủ tổng thống của
Hoàng Đức Nhã (đặt tại số 116 đường
Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị
92
Minh Khai). 15 giờ ngày 30 tháng 4 tất cả
cán bộ Thành ủy cánh A (đã bí mật vào từ
đêm 29 tháng 4) tập kết nhận nhiệm vụ tại
khu trường Pétrus Ký. Cán bộ, chiến sĩ
cánh B của Thành ủy có mặt cùng nhân
dân Sài Gòn - Gia Định nổi dậy giành
chính quyền, giành quyền làm chủ từ ấp, xã
đến thị trấn ngoại thành, cũng đã hội tụ về
nhận nhiệm vụ tại dinh tỉnh trưởng Gia
Định. Công nhân ở hầu hết các xí nghiệp
quan trọng khác tại Sài Gòn – Gia Định đã
dũng cảm kiên cường đấu tranh để bảo vệ
xí nghiệp, kho tàng, giữ gìn tài sản để bàn
gia cho cách mạng.
Tại vùng Ngã bảy (giao lộ của các con
đường Ngô Gia Tự, Lý Thái Tổ, Điện Biên
Phủ, Lê Hồng Phong) một vị trí sát trung
tâm thành phố, đầu mối giao thông với các
tỉnh khác của Sài Gòn - Gia Định - Chợ
Lớn đông đảo lực lượng công nhân lao
động đã tích cực chuẩn bị, xuống đường,
phối hợp với các cánh quân chính trị và vũ
trang tiến vào giải phóng Sài Gòn vào
30.4.1975.
Nhìn chung, khi Quân giải phóng tiến
vào Sài Gòn, công nhân đã phối hợp các cơ
sở cách mạng và quần chúng lao động nội
thành kịp thời nổi dậy chiếm lĩnh và bảo vệ
các cơ sở kinh tế, chính trị văn hóa quan
trọng, bảo đảm mọi sinh hoạt bình thường
của một thành phố mới giải phóng. Công
nhân Sài Gòn chấp hành chỉ thị của Thành
ủy và Ủy ban khởi nghĩa đã nhanh chóng
chiếm và làm chủ nhà máy, xí nghiệp, công
sở của chính quyền Sài Gòn, không cho đối
phương và những phần tử xấu phá hoại, lấy
cắp hoặc tẩu tán máy móc, vật liệu sản
xuất, kho tàng, bảo vệ hồ sơ, tài liệu và
phương tiện làm việc của các công sở
chính quyền cũ để bàn giao cho Ủy ban
quân quản [6]. Công nhân Sài Gòn - Gia
Định cùng với các lực lượng học sinh sinh
viên, báo giới, trí thức, tiểu thương yêu
nước đấu tranh kêu gọi các lính Sài Gòn bỏ
vũ khí đề đầu hàng quân Giải phóng.
Trong bài diễn văn đọc tại buổi lễ ra
mắt của Ủy ban quân quản thành phố ngày
7.5.1975, thượng tướng Trần Văn Trà đã
nhấn mạnh: “Đặc biệt cả nước nhiệt liệt
biểu dương tinh thần vùng lên làm chủ của
toàn thể giai cấp đô thành bao gồm cả lao
động chân tay và lao động trí óc, đã dũng
cảm, kiên cường đấu tranh bảo vệ xí
nghiệp, kho tàng, công sở, trường học, trao
cho chính quyền cách mạng và tự mình
quản lý mọi công việc cho guồng máy sinh
hoạt của cả thành phố lớn này chạy liên tục
bình thường không hề gián đoạn”[9].
Trong dịp kỉ niệm 85 ngày thành lập
công đoàn Việt Nam, bài phát biểu đồng
chí Lê Thanh Hải (Ủy viên Bộ Chính trị,
Bí thư Thành ủy TP HCM) có đề cập đến
nhận định của đồng chí Nguyễn Văn Linh:
“ một điều đặc biệt là lúc ta tiến hành
Chiến dịch Hồ Chí Minh thì giai cấp tư sản
nhất là bọn tư sản mại bản biết chúng thất
bại nên muốn phá hoại, muốn gỡ bỏ các bộ
phận máy móc hoặc đốt kho. Nhưng chính
công nhân, kể cả công nhân ở những nơi
chi bộ ta bị bắt hết, nhưng có ảnh hưởng
lãnh đạo của Đảng, những công nhân trước
kia địch định bôi đen để ta không nhuộm
đỏ được, chính họ đã bảo vệ nhà máy, xí
nghiệp, kho tàng, nguyên liệu. Lúc đó cán
bộ ta đâu đã đến kịp để tiếp quản các cơ sở
ấy. Những công nhân ở đây đã tự bàn bạc
với nhau để khôi phục sản xuất. Và đặc
biệt, ta giải phóng một thành phố như thế,
nhưng không một giờ nào dòng điện bị tắt,
không một giờ nào nước bị tắt và đài vô
tuyến truyền hình chỉ 12 giờ sau khi ta giải
phóng lập tức phát hình chương trình của
ta” [11].
4. Kết luận
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng là
thắng lợi có sự đóng góp sức mạng tổng
hợp của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
công nhân Sài Gòn - Gia Định. Nhờ sự
93
tuyên truyền, giác ngộ của Đảng, công
nhân Sài Gòn - Gia Định sớm đứng vào
trận tuyến đấu tranh giành toàn thắng.
Công nhân đã thực hiện đúng những yêu
cầu của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định. Họ
đã chủ động đấu tranh giữ gìn máy móc,
bảo vệ xí nghiệp, cơ quan, không cho đối
phương phá hoại; kết hợp với thanh niên,
học sinh viên viên vận động đồng bào
xuống đường, giữ gìn trật tự, trị an đường
phố, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch,
phối hợp bộ đội truy tìm ác ôn [8]
Hai mươi mốt năm đấu tranh ròng rã,
công nhân Sài Gòn - Gia Định đã hoàn
thành vẻ vang sứ mạng mà lịch sử giao
phó, cùng quân và dân Sài Gòn - Gia Định
cả nước lần lượt đánh bại các chiến lược
chiến tranh của Mỹ giành thắng lợi thắng
lợi cuối cùng tại Sài Gòn vào 30 tháng 4
năm 1975.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Liên đoàn lao động TP.Hồ Chí
Minh (1993), Công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc, Nxb Lao động.
2. Bộ Quốc phòng - Viện lịch sử quân sử Việt
Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ
cứu nước 1954-1975, Tập VIII - Toàn thắng,
Nxb Chính trị Quốc Gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Bộ Nội vụ - Cục văn thư và lưu trữ nhà nước
– Trung tâm lưu trữ quốc gia II (2010), Về đại
thắng mùa xuân 1975 – Qua tài liệu của
chính quyền Sài Gòn, Nxb Chính trị Quốc Gia
– Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam - Ban Chấp hành
Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2014),
Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh
1930 - 1975, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, tr.981.
5. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Nam bộ
kháng chiến (2012), Những vấn đề chính yếu
trong lịch sử Nam bộ kháng chiến 1945-1975,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Nam bộ
kháng chiến (2012), Biên niên sử kiện lịch sử
Nam bộ kháng chiến 1945-1975, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
7. Hà Minh Hồng, Trần Nam Tiến, Lưu Văn
Quyết, Hà Kim Phương (2007), Lịch sử Sài
Gòn thời kì 1945-1975, Nxb Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh.
8. Lê Hậu Hãn (CB), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn
Thư (2007), Đại cương Lịch sử Việt Nam
(1945-2005), Tập III, Nxb Giáo dục.
9. Cao Văn Lượng (1977), Công nhân miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954-1975), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Lưu Phương Thanh, Trần Hải Phụng (1994),
Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng
chiến 1945-1975, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Báo Người lao động online (26/7/2014), Xứng
đáng là lực lượng tiên phong, truy cập từ
luong-tien-phong-20140726172336034.htm
Ngày nhận bài: 30/3/2015 Biên tập xong: 15/10/2015 Duyệt đăng: 20/10/2015
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8(33) - Thaùng 10/2015
94
Hiện tượng nói dối trong giao tiếp xã hội
Phenomenn lie in social communication
ThS. Nguyễn Thị Tuyết Ngân
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM
M.A. Nguyen Thi Tuyet Ngan
University of Social Sciences and Humanities – National University Ho Chi Minh City
Tóm tắt
Bài viết đề cập tới nói dối như một hiện tượng giao tiếp xã hội với khá nhiều dạng thức cùng với các
đặc điểm khác nhau nhìn từ cách thức giao tiếp và đối tượng tham gia giao tiếp N i ối t àm mất
lòng tin nhưng n thực sự à một h ạt động nh m đ p ứng nh ng nh c c thực c đời ống c n
người
Từ khóa: nói dối, giao tiếp xã hội, mất lòng tin, dối lòng
Abstract
The paper discusses lies as a social communication phenomenon in its various formats, with its different
characteristics depending on the form of communication and the subjects involved. Although lies do
undermine trust, it is a kind of social activities that is undertaken to satisfy some real needs of human
beings in the daily life.
Keywords: lie, social communication, undermine trust, self deception
N i ối à một hiện tượng c ân tộc
nà c ng c và c từ rất â đời Tr ng một
ố ại h nh văn học ân gi n th n th ại
tr ện c t ch thành ng t c ng đ thấ
c nhiề ế tố c hiện tượng nà
Theo quan niệm ch ng c hội n i
ối ư n được m à ph n gi trị n
ị ngăn cấm và hạn chế ng T vậ
ch tới n n c n t n tại rất ph iến và
ph t triển rất đ ạng (Pamela Meyer, tác
gi cuốn sách “Li p tting: Proven
T chniq t D t ct D c pti n”
nhiều nghiên cứu thực nghiệm, cho r ng,
trung bình một người nói dối từ 10 - 200
l n/ngày [10]) Điề nà ch thấ đâ à
hiện tượng tất ế m ng t nh văn h -
hội và c nh ng gi trị ri ng iệt T
nhi n như một hiện tượng văn h ng n từ
n i ối c n t được q n tâm h ặc q n
tâm chư được thỏa đ ng Tr ng c c tài
iệ th ộc phạm vi ngành ng n ng c
ch ng t i chư t m được tài iệ nà đề cập
đến hiện tượng nà
Ở phạm vi rộng h n n i ối th ộc nh
vực n o ng gi c n người với
c n người n c mối liên quan trực tiếp
đến c c nghi n cứu triết h c, tâm lý h c,
gi o d c c, o c c, khoa h c giao
tiếp và nghiên c u lối sống c a các ch thể
i n q n Nh ng tài iệ nghi n cứ trực
tiếp về n i ối tr ng c c ngành nà c ng
h ng nhiề c tài iệu nghiên cứu ch
yếu xuất phát từ phư ng Tâ một số sách
vở b ng tiếng Việt ít nhiề c đề cập đến
95
nói dối thì ch yếu là tài liệu dịch hoặc
biên dịch từ tiếng nước ngoài. Trong số các
tài liệu không nhiều b ng tiếng iệt và
tiếng nước ngoài ấy, m ng tài liệu phong
ph h n c là thuộc về ngành tâm lý học
nh m gi i th ch ý người ta nói dối, ví
d "Why We Lie: The Evolutionary Roots
of Deception and the Unconscious Mind"
c a D. L. Smith [13], hoặc hiến kế tránh bị
lừ đ o, ví d : "Không thể bị lừa dối" c a
D.J. Lieberman [3]...
1. Định nghĩa nói dối
1.1. c định ngh về nói dối c a
nhiều ngôn ng (t. Anh, Pháp, Nga, B
Đà Nh đều tập trung sự ch ý và đặc
trưng c i n i ối là nói không đúng sự
thật. Trọng tâm c a thuật ng “n i ối”
không n m ở ch “n i” mà n m ở ch
“ ối” m ngu n t iển i t am c
L Ngọc Tr tr ng ph n “Tiếng Việt
chuyển gốc Hán-Việt” gi i ngh dối à
“ hi ễ h ng thật di (dối ” [2, tr. 286].
Nhưng tr ng c c từ điển Hán -Việt c a
Đà D Anh [1], Viện Ngôn ng học
[17], Nguyễn Lân [5] đều không có từ
“ ối” Trong tiếng Hán có từ “hoang” (謊)
là “lời nói dối” (danh từ), “dối trá, lừ đ ”
động từ), “hư gi , không thật” t nh từ) và
từ “đà” (訑) là “ ối tr ” động từ).
Trong tiếng Việt “n i ối” à một từ
ghép g m có hai bộ phận tr ng đ về ng
pháp, nói là thành ph n chính chỉ họat
động ngôn từ, và dối là ph n ph chỉ tính
chất, cách thức hoạt động; nhưng về mặt
ng ngh th ngược lại, dối đ ng v i tr
chính chỉ tính chất đ nh gi đ i hi người
ta s d ng dối như một động từ tư ng
đư ng với nói dối. Trong lời bài dân ca
Qua c