Cung, cầu và chính sách của chính phủ

Các nhà kinh tế đóng hai vai trò. Là nhà khoa học, họxây dựng và thửnghiệm các lý thuyết đểlý giải thếgiới xung quanh mình. Là nhà hoạch định chính sách, họsửdụng lý thuyết của mình với mục đích làm cho thếgiới trởnên tốt đẹp hơn. Hai chương vừa qua đã tập trung vào vai trò nhà khoa học. Chúng ta đã thấy cung và cầu quyết định giá cảvà lượng hàng hóa bán ra nhưthếnào. Chúng ta cũng đã thấy các sựkiện khác nhau làm thay đổi cung và cầu, qua đó làm thay đổi giá và lượng cân bằng nhưthếnào.

pdf17 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2166 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cung, cầu và chính sách của chính phủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 1 CHƯƠNG 4 CUNG, CẦU VÀ CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ Các nhà kinh tế đóng hai vai trò. Là nhà khoa học, họ xây dựng và thử nghiệm các lý thuyết để lý giải thế giới xung quanh mình. Là nhà hoạch định chính sách, họ sử dụng lý thuyết của mình với mục đích làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Hai chương vừa qua đã tập trung vào vai trò nhà khoa học. Chúng ta đã thấy cung và cầu quyết định giá cả và lượng hàng hóa bán ra như thế nào. Chúng ta cũng đã thấy các sự kiện khác nhau làm thay đổi cung và cầu, qua đó làm thay đổi giá và lượng cân bằng như thế nào. Chương này đem lại cho chúng ta một cái nhìn ban đầu về chính sách. Ở đây, chúng ta phân tích các loại chính sách khác nhau của chính phủ hoàn toàn bằng công cụ cung và cầu. Như các bạn sẽ thấy, phương pháp phân tích này đem lại một số hiểu biết đáng ngạc nhiên. Các chính sách thường gây ra các hậu quả mà các nhà hoạch định ra chúng không mong đợi hay dự kiến trước. Chúng ta bắt đầu bằng việc xem xét các chính sách kiểm soát giá cả trực tiếp. Ví dụ, luật về kiểm soát tiền thuê nhà quy định mức tiền thuê tối đa mà chủ nhà được phép thu từ người thuê nhà. Luật về tiền lương tối thiểu quy định tiền lương thấp nhất mà các doanh nghiệp được phép trả cho công nhân. Những quy định về kiểm soát giá cả thường được đưa ra khi các nhà hoạch định chính sách tin rằng giá thị trường của một hàng hóa hay dịch vụ nào đó không công bằng đối với người mua hoặc người bán. Song như chúng ta sẽ thấy, chính các chính sách này cũng có thể tạo ra sự bất công. Sau khi đã thảo luận về các biện pháp kiểm soát giá cả, chúng ta sẽ xem xét ảnh hưởng của thuế. Các nhà hoạch định chính sách sử dụng thuế vừa để tác động vào các kết cục thị trường, vừa để tạo nguồn thu cho các mục tiêu công cộng. Cho dù tính phổ biến của thuế trong nền kinh tế của chúng ta rất rõ ràng, nhưng hiệu quả của chúng thì khó hiểu hơn. Ví dụ khi chính phủ đánh thuế vào tiền lương mà doanh nghiệp trả cho công nhân, doanh nghiệp hay công nhân phải chịu gánh nặng về thuế này? Câu trả lời chỉ trở nên rõ ràng khi chúng ta sử dụng các công cụ mạnh mẽ là cung và cầu. CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT GIÁ CẢ Để phân tích ảnh hưởng của biện pháp kiểm soát giá cả đối với các kết cục thị trường, một lần nữa chúng ta lại xem xét thị trường kem. Như chúng ta đã thấy trong chương 4, nếu kem được bán trên thị trường cạnh tranh, không có sự can thiệp của chính phủ, thì giá kem sẽ điều chỉnh để cân bằng cung và cầu: Tại mức giá cân bằng, lượng kem mà người mua muốn mua đúng bằng lượng kem mà người bán muốn bán. Cụ thể, chúng ta giả sử giá cân bằng là 3 đô la một chiếc kem. Không phải ai cũng cũng vui mừng với kết quả mà thị trường tự do tạo ra. Giả sử Hiệp hội những người ăn kem Mỹ phàn nàn rằng giá 3 đô la quá cao và mọi người không thể thưởng thức mỗi ngày một chiếc kem (định mức ăn kem mà họ đưa ra). Trong khi đó, Tổ chức Quốc gia các nhà sản xuất kem lại kêu ca rằng mức giá 3 đô la - kết quả của sự “cạnh tranh cắt cổ” - đang làm cho thu nhập của các thành viên của họ quá thấp. Cả hai NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 2 nhóm này đều vận động chính phủ thông qua một đạo luật nhằm thay đổi kết cục thị trường bằng cách kiểm soát giá cả trực tiếp. Tất nhiên, do người mua bất kỳ hàng hóa nào cũng muốn có giá thấp hơn trong khi người bán lại muốn bán với giá cao hơn, cho nên lợi ích của hai nhóm người này xung đột nhau. Nếu nhóm người ăn kem thành công trong việc vận động hành lang, chính phủ sẽ thông qua một mức giá tối đa cho kem, gọi là trần giá. Nếu nhóm các nhà sản xuất kem thành công, chính phủ sẽ thông qua một mức giá tối thiểu, gọi là sàn giá. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét ảnh hưởng của các chính sách này. Ảnh hưởng của trần giá tới kết quả hoạt động của thị trường Khi chính phủ áp đặt một mức trần giá cho thị trường kem do bị mủi lòng vì những lời ca thán của người ăn kem, hai kết cục có thể xảy ra. Trong phần (a) của hình 1, chính phủ định mức trần giá là 4 đô la một chiếc kem. Trong trường hợp này, trần giá được coi là không ràng buộc do giá cân bằng cung cầu (3 đô la) thấp hơn trần giá. Các lực lượng thị trường sẽ đẩy nền kinh tế về trạng thái cân bằng một cách tự nhiên và trần giá không gây ra ảnh hưởng gì. Phần (b) của hình 1 chỉ ra một khả năng khác thú vị hơn. Trong trường hợp này, chính phủ ấn định trần giá là 2 đô la một chiếc kem. Do giá cân bằng là 3 đô la cao hơn trần giá, nên trần giá này không phải là một điều kiện ràng buộc trên thị trường. Các lực lượng cung cầu có xu hướng đẩy giá cả về mức giá cân bằng. Nhưng khi giá thị trường đụng vào trần giá, nó không thể tăng cao hơn nữa. Do đó, giá thị trường phải bằng trần giá. Tại mức giá này, lượng cầu về kem (125 chiếc như trong hình vẽ) vượt quá lượng cung về kem (75 chiếc). Do xảy ra tình trạng thiếu hụt kem, nên một số người muốn mua kem ở mức giá cao hơn không mua được kem. Khi tình hình thiếu hụt kem xảy ra do tác động của trần giá, một cơ chế nào đó sẽ tự nhiên phát sinh để phân phối lượng kem này. Cơ chế này có thể là nguyên tắc xếp hàng: Những người mua sẵn sàng đến sớm và chờ đợi sẽ mua được kem, trong khi những người không sẵn sàng chờ đợi không mua được kem. Hoặc người bán có thể phân phối số kem này theo sự thiên vị cá nhân của họ, chẳng hạn chỉ bán cho bạn bè, họ hàng, người cùng dân tộc hay chủng tộc. Cần chú ý rằng mặc dù trần giá được đưa ra nhằm mục đích giúp đỡ người mua kem, nhưng không phải tất cả người mua đều được hưởng lợi từ chính sách này. Một số người được lợi vì được mua kem với giá thấp hơn, nhưng họ phải xếp hàng, trong khi những người khác không mua được một chiếc kem nào. Ví dụ về thị trường kem chỉ ra một nguyên tắc chung: Khi chính phủ áp đặt một trần giá ràng buộc trong thị trường cạnh tranh, tình trạng thiếu hụt hàng hóa sẽ phát sinh và người bán phải phân phối lượng hàng hóa khan hiếm này cho một số lớn người mua tiềm tàng. Các cơ chế phân phối phát sinh dưới tác động của trần giá này hiếm khi đáng mong muốn. Việc xếp hàng dài là không có hiệu quả, vì nó làm mất thời gian của người mua. Sự phân biệt đối xử theo thiên kiến của người bán vừa không hiệu quả (vì hàng hóa không đến được người mua đánh giá nó cao nhất), vừa có khả năng không công bằng. Ngược lại, cơ chế phân phối trong thị trường cạnh tranh tự do vừa có hiệu quả, vừa khách quan. Khi thị trường kem đạt trạng thái cân bằng, bất kỳ ai muốn trả theo giá thị trường đều mua được kem. Thị trường tự do phân phối hàng hóa thông qua giá cả. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 3 Hình 1. Thị trường với trần giá. Trong phần (a), chính phủ định mức trần giá là 4 đô la. Do mức trần giá này cao hơn giá cân bằng là 3 đô la, nên nó không có tác dụng gì và thị trường có thể đạt tới trạng thái cân bằng cung cầu. Tại trạng thái cân bằng, lượng cung bằng lượng cầu là 100 chiếc kem. Trong phần (b), chính phủ định ra trần giá là 2 đô la. Do trần giá này thấp hơn giá cân bằng là 3 đô la, nên giá thị trường chỉ là 2 đô la. Tại mức giá này, lượng cầu bằng 125 chiếc kem nhưng lượng cung chỉ bằng 75 chiếc kem. Do vậy, mức thiếu hụt là 50 chiếc kem. NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: XẾP HÀNG TẠI TRẠM XĂNG Như chúng ta đã phân tích trong chương trước, vào năm 1973 Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đã làm tăng giá dầu trên thị trường dầu thô thế giới. Do dầu thô là đầu vào chủ yếu dùng để sản xuất xăng, nên giá dầu thô cao hơn đã làm giảm cung về xăng. Tình trạng xếp hàng dài trước các trạm xăng trở nên phổ biến và lái xe thường phải chờ đợi hàng giờ chỉ để mua được vài thùng xăng. Ai phải chịu trách nhiệm về tình trạng xếp hàng dài để mua xăng này? Hầu hết mọi người đổ lỗi cho OPEC. Chắc chắn là nếu OPEC không làm tăng giá dầu thô, thì tình trạng thiếu xăng không xảy ra. Thế nhưng các nhà kinh tế lại đổ lỗi cho các quy định của chính phủ nhằm giới hạn giá mà các công ty xăng dầu được phép tính cho xăng. Cung Giá trần 0 100 Lượng kem (lượng cân bằng) Giá kem 4 $ 3 $ Cầu Thiếu hụt Cung Giá trần 0 75 125 Lượng kem lượng cung lượng cầu Giá kem 3 $ 2 $ Cầu (a) Giá trần không ràng buộc (b) Giá trần ràng buộc Cung, S1 Giá trần 0 Q1 Lượng xăng Giá xăng P1 Cầu 1. Ban đầu giá trần không có tính ràng buộc, ... (a) Giá trần không ràng buộc của xăng NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 4 Hình 2. Thị trường xăng với trần giá. Phần (a) cho thấy thị trường xăng khi trần giá không ràng buộc bởi vì giá cân bằng P1 thấp hơn trần. Phần (b) cho thấy thị trường xăng sau khi sự gia tăng giá dầu (một đầu vào cho sản xuất xăng) làm dịch chuyển đường cung sang trái từ S1 tới S2. Trong thị trường không bị kiểm soát, giá sẽ tăng từ P1 lên P2. Tuy nhiên, trần giá ngăn cản không cho điều này xảy ra. Tại mức trần giá ràng buộc, người tiêu dùng sẵn sàng mua lượng QD, nhưng người sản xuất xăng chỉ sẵn sàng bán lượng QS. Mức chênh lệch giữa lượng cầu và lượng cung QD - QS chính là lượng xăng bị thiếu hụt. Hình 2 cho biết điều gì đã xảy ra. Như được minh họa trong phần (a), trước khi OPEC làm tăng giá dầu thô, giá cân bằng của xăng là P1, thấp hơn trần giá. Do đó, quy định về giá cả không có tác dụng gì. Tuy nhiên, khi giá dầu thô tăng lên thì tình hình thay đổi. Việc dầu thô lên giá làm tăng chi phí sản xuất xăng và điều này làm giảm cung về xăng. Phần (b) cho thấy, sự dịch chuyển sang trái của đường cung từ S1 tới S2 đã làm tăng giá cân bằng. Trong thị trường không bị kiểm soát, sự dịch chuyển của đường cung này sẽ làm tăng giá xăng cân bằng từ P1 lên P2, và kết quả là không có tình trạng thiếu hụt xăng. Song trần giá đã ngăn cản không cho giá tăng lên đến mức cân bằng. Tại mức trần giá này, các nhà sản xuất chỉ sẵn sàng bán lượng QS và người tiêu dùng sẵn sàng mua lượng QD. Bởi vậy, sự dịch chuyển của đường cung gây ra tình trạng thiếu hụt trầm trọng tại mức giá bị kiểm soát. Cuối cùng thì đạo luật về kiểm soát giá xăng cũng bị bãi bỏ. Các nhà làm luật đã hiểu ra rằng họ phải chịu một phần trách nhiệm trong việc làm cho rất nhiều người Mỹ mất thời gian chờ đợi xếp hàng mua xăng. Hiện nay khi giá dầu thô thay đổi, giá xăng có thể điều chỉnh để làm cho cung và cầu cân bằng nhau. NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: KIỂM SOÁT TIỀN THUÊ NHÀ TRONG NGẮN HẠN VÀ DÀI HẠN Một ví dụ phổ biến của trần giá là chính sách kiểm soát tiền thuê nhà. Tại nhiều thành phố, chính phủ địa phương quy định mức trần cho tiền thuê mà các chủ nhà có thể thu từ người (b) Giá trần mang tính ràng buộc của xăng S2 S1 Giá trần 0 QS QD Q1 Lượng xăng Cầu 3. ... giá trần trở nên ràng buộc 2. ... nhưng khi cung giảm ... Giá xăng P2 P14. ... gây ra thiếu hụt NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 5 thuê nhà. Mục tiêu của chính sách này là trợ giúp người nghèo thông qua việc làm cho nhà ở trở nên rẻ hơn. Các nhà kinh tế thường chỉ trích chính sách kiểm soát tiền thuê nhà này với lập luận rằng đó là một cách kém hiệu quả để giúp người nghèo nâng cao mức sống. Một nhà kinh tế đã gọi chính sách kiểm soát tiền thuê nhà là “cách tốt nhất để phá hủy một thành phố, ngoài ném bom”. Quảng đại quần chúng không thấy ngay những tác động tiêu cực của chính sách kiểm soát tiền thuê nhà, bởi vì chúng chỉ xảy ra sau nhiều năm. Trong ngắn hạn, chủ nhà chỉ có một số lượng các căn hộ cho thuê cố định và họ không thể nhanh chóng thay đổi con số này khi tình hình thị trường thay đổi. Hơn nữa, số người muốn thuê nhà trong một thành phố có thể không phản ứng mạnh đối với tiền thuê nhà trong ngắn hạn, bởi vì người ta cần có thời gian để điều chỉnh nhà ở của mình. Do đó trong ngắn hạn, cung và cầu về nhà ở tương đối ít co giãn. Phần (a) của hình 3 chỉ rõ các tác động ngắn hạn của chính sách kiểm soát tiền thuê nhà đối với thị trường nhà ở. Cũng như với bất kỳ trần giá nào, chính sách kiểm soát tiền thuê nhà gây ra tình trạng thiếu hụt. Song do cung và cầu không co giãn trong ngắn hạn, nên mức thiếu hụt ban đầu do chính sách kiểm soát tiền thuê nhà gây ra thấp. Tác động chính trong ngắn hạn là làm giảm tiền thuê nhà. Hình 3. Đạo luật về kiểm soát tiền thuê nhà trong ngắn hạn và dài hạn. Phần (a) cho thấy tác động ngắn hạn của luật kiểm soát tiền thuê nhà: Vì cung và cầu về nhà ở tương đối không co giãn, mức trần giá được quy định bởi luật kiểm soát tiền thuê nhà chỉ gây ra sự thiếu hụt nhỏ về nhà ở. Phần (b) cho thấy tác động dài hạn của luật kiểm soát giá cả: Vì cung và cầu về nhà ở co giãn nhiều hơn, nên luật kiểm soát tiền thuê nhà gây ra lượng thiếu hụt lớn. Diễn biến trong dài hạn lại rất khác bởi vì theo thời gian, người thuê và người cho thuê nhà phản ứng mạnh hơn đối với các điều kiện thị trường. Về phía cung, chủ nhà phản ứng lại tiền thuê nhà thấp bằng cách không xây thêm các căn hộ mới và không bảo dưỡng các căn hộ hiện có. Về phía cầu, tiền thuê nhà thấp khuyến khích mọi người tìm thuê căn hộ riêng (thay vì sống với cha mẹ hay thuê chung với người khác) và gây ra tình trạng ngày càng có nhiều người đổ về thành phố. Do đó, cả cung và cầu đều co giãn nhiều hơn trong dài hạn. Tiền thuê bị kiểm soát thiếu hụt Cầu Cung 0 Lượng căn hộ Tiền thuê căn hộ (b) Kiểm soát tiền thuê nhà trong dài hạn (cung và cầu co giãn mạnh) (a) Kiểm soát tiền thuê nhà trong ngắn hạn (cung và cầu ít co giãn) thiếu hụt Cầu Cung Tiền thuê bị kiểm soát 0 Lượng căn hộ Tiền thuê căn hộ NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 6 Phần (b) của hình 3 minh họa cho thị trường nhà ở trong dài hạn. Khi chính sách kiểm soát tiền thuê nhà làm cho tiền thuê nhà thấp hơn mức cân bằng, lượng cung về căn hộ giảm, trong khi lượng cầu về căn hộ tăng. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhà ở trầm trọng. Ở các thành phố áp dụng chính sách kiểm soát tiền thuê nhà, chủ nhà sử dụng nhiều cơ chế để phân phối nhà. Một vài chủ nhà có một danh sách dài các khách chờ. Người khác thì ưu tiên người thuê chưa có con. Lại có những người phân biệt đối xử với khách hàng theo chủng tộc. Cũng có khi các căn hộ lại được dành cho người thuê nhà sẵn sàng đút lót những kẻ trông nom khu nhà ấy. Về bản chất, các khoản hối lộ này làm cho tổng tiền thuê nhà của căn hộ (bao gồm cả tiền hối lộ) gần với mức giá cân bằng. Để hiểu đầy đủ các tác động của chính sách kiểm soát tiền thuê nhà, chúng ta phải nhớ lại một trong Mười Nguyên lý của kinh tế học nêu ra trong chương 1: Con người phản ứng với các kích thích. Trong thị trường tự do, chủ nhà cố gắng giữ nhà sạch và an toàn, bởi vì các căn hộ đó có giá cao. Ngược lại, khi chính sách kiểm soát tiền thuê nhà tạo ra sự thiếu hụt và chờ đợi, chủ nhà mất động cơ quan tâm tới lợi ích của người thuê nhà. Tại sao chủ nhà lại phải chi tiền để bảo dưỡng và nâng cấp nhà cho thuê trong khi người có cầu thuê đang xếp hàng để thuê chúng trong tình trạng hiện tại? Xét cho cùng thì mọi người thuê được nhà với giá rẻ hơn, nhưng họ cũng phải chấp nhận ngôi nhà kém chất lượng hơn. Các nhà hoạch định chính sách thường phản ứng với các tác động do chính sách kiểm soát giá gây ra bằng cách đưa ra các quy định mới. Ví dụ, có các đạo luật quy định rằng việc phân biệt chủng tộc khi cho thuê nhà ở là phạm pháp và yêu cầu chủ nhà phải đáp ứng điều kiện sinh hoạt cần thiết tối thiểu. Song việc thực hiện các đạo luật này rất khó khăn và tốn kém. Ngược lại, nếu chính sách kiểm soát tiền thuê nhà bị bãi bỏ và thị trường nhà ở được điều tiết bởi các lực lượng cạnh tranh, những đạo luật như trên sẽ trở nên ít cần thiết hơn. Trong thị trường tự do, tiền thuê nhà tự điều chỉnh để loại trừ tình trạng thiếu hụt - một nguyên nhân gây ra nhiều hành vi không mong muốn của người cho thuê nhà. Tác động của sàn giá tới kết cục thị trường Để xem xét ảnh hưởng của một loại chính sách kiểm soát giá khác của chính phủ, chúng ta hãy quay lại với thị trường kem. Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng ra rằng chính phủ bị thuyết phục bởi những lời khẩn cầu do Tổ chức Quốc gia của các nhà sản xuất Kem đưa ra. Trong trường hợp này, chính phủ có thể thiết lập một sàn giá. Sàn giá, cũng như trần giá, là một cố gắng của chính phủ nhằm duy trì giá cả ở một mức khác với mức giá cân bằng. Trong khi trần giá áp đặt mức tối đa cho giá cả, thì sàn giá lại áp đặt mức tối thiểu. Khi chính phủ quy định sàn giá cho thị trường kem, hai khả năng có thể xảy ra. Nếu chính phủ áp đặt sàn giá 2 đô la một chiếc kem trong khi giá cân bằng là 3 đô la, chúng ta sẽ có kết quả như trong phần (a) của hình 4. Trong trường hợp này, sàn giá không có tính ràng buộc bởi vì giá cân bằng cao hơn sàn giá. Các lực lượng thị trường sẽ đẩy nền kinh tế tới trạng thái cân bằng một cách tự nhiên và sàn giá không có tác đụng gì. Phần (b) của hình 4 cho thấy điều gì xảy ra khi chính phủ áp đặt sàn giá bằng 4 đô la một chiếc kem. Trong trường hợp này, sàn giá có tính chất ràng buộc trên thị trường bởi vì giá cân bằng 3 đô la thấp hơn sàn giá. Các lực lượng cung cầu có xu hướng đẩy giá thị trường về mức cân bằng, nhưng khi chạm sàn, nó không thể xuống thấp hơn nữa. Giá thị trường phải bằng sàn giá. Tại mức sàn giá này, lượng kem cung ra (120 chiếc) vượt quá lượng cầu (80 chiếc). NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 7 Một số người muốn bán kem với giá hiện hành không bán được kem. Do đó, sàn giá ràng buộc gây ra tình trạng thặng dư. Nếu trần giá và sự thiếu hụt có thể dẫn đến các cơ chế phân phối không mong muốn, thì sàn giá và sự thặng dư cũng vậy. Trong trường hợp áp dụng sàn giá, một số người bán không thể bán hết lượng kem mà họ muốn bán với giá thị trường. Những người bán biết chiều theo khuynh hướng cá nhân của người mua, có thể do mối liên hệ gia đình hay chủng tộc, sẽ bán được nhiều kem hơn so với những người không có điều kiện này. Ngược lại trong thị trường tự do, giá đóng vai trò là cơ chế phân phối và người bán có thể bán được tất cả lượng kem họ muốn bán tại mức giá cân bằng. Hình 4. Thị trường với sàn giá. Trong phần (a), chính phủ áp đặt sàn giá bằng 2 đô la. Vì sàn giá thấp hơn giá cân bằng là 3 đô la, nên nó không có tác động gì. Giá thị trường điều chỉnh để cân bằng cung cầu. Tại mức giá cân bằng, cả lượng cung và lượng cầu đều là 100 chiếc. Trong phần (b), chính phủ áp đặt sàn giá bằng 4 đô la, cao hơn giá cân bằng là 3 đô la. Do đó, giá thị trường là 4 đô la. Do có 120 chiếc kem được cung ứng tại mức giá này trong khi lượng cầu chỉ bằng 80 chiếc kem, nên mức thặng dư bằng 40 chiếc kem. Cung Giá sàn 0 100 Lượng kem (lượng cân bằng) Giá kem 3$ 2$ Cầu (a) Giá sàn không ràng buộc Cầu Dư thừa Cung Giá sàn Giá kem 4$ 3$ (giá cân bằng) 0 80 120 Lượng kem lượng cầu lượng cung (b) Giá sàn ràng buộc NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 8 NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: LUẬT TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Một ví dụ quan trọng về chính sách sàn giá là tiền lương tối thiểu. Các đạo luật về tiền lương tối thiểu quy định mức giá thấp nhất mà giới chủ có thể trả cho người lao động. Quốc hội Mỹ lần đầu tiên quy định tiền lương tối thiểu trong Đạo luật về Tiêu chuẩn lao động bình đẳng vào năm 1938 nhằm đảm bảo cho người lao động một mức sống tối thiểu. Vào năm 1996, tiền lương tối thiểu theo luật Liên bang là 4,75 đô la/giờ. Một số bang còn có tiền lương tối thiểu cao hơn. Để phân tích tác động của tiền lương tối thiểu, chúng ta hãy xem xét thị trường lao động. Phần (a) của hình 5 mô tả thị trường lao động phụ thuộc vào cung và cầu như tất cả các thị trường khác. Người lao động quyết định cung về lao động và các doanh nghiệp quyết định cầu về lao động. Nếu chính phủ không can thiệp, tiền lương sẽ điều chỉnh để cân
Tài liệu liên quan