Nhằm đáp ứng yêu cầu tìm hiểu lịch sử nước nhà của số đông Bạn đọc đã gửi thư về Ban biên tập
trong thời gian qua, Tạp chí Quê Hương xin trân trọng giới thiệu cuốn sách "Tóm tắt niên biểu lịch sử
Việt Nam" do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành, người biên soạn là Hà Văn Thư và Trần
Hồng Đức. Chúng tôi xin đăng toàn văn "Lời giới thiệu" của Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Minh
Thảo viết về tài liệu này để Bạn đọc tham khảo.
Lịch sử là một khoa học kéo dài theo thời gian, người đọc dễ bị lôi cuốn và chìm trong biết bao sự
kiện nối tiếp nhau, đan xen lớn, nhỏ vô cùng phong phú.
Cuốn sách "Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam"do Hà Văn Thư và Trần Hồng Đức biên soạn giúp
cho người đọc biết được tiến trình dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam một
cách xuyên suốt và ngắn gọn.
Ở đây, người đọc có thể nắm bắt được những sự kiện lịch sử quan trọng nhất, những anh hùng dân
tộc và những nhân vật lịch sử có tác động lớn đến sự hình thành và phát triển của Tổ quốc Việt Nam.
"Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam"là một hình thức biên soạn lịch sử tốt, giúp người đọc tìm hiểu
lịch sử một cách nhanh chóng, thuận tiện và dễ hiểu, dễ nhớ mà vẫn trung thực, khoa học.
Tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này cùng bạn đọc.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
97 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3139 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cuốn sách Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời giới thiệu cuốn sách TÓM TẮT NIÊN BIỂU LỊCH SỬ VIỆT NAM
I. Truyền thuyết Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng - Lạc Long Quân
II. Nhà Thục (257- 208 trCN) 50 năm, quốc hiệu Âu Lạc, kinh đô Phong Khê (Cổ Loa, Đông Anh,
Hà Nội)
III. Phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ nhất (207 trCN-39) – Nhà Triệu (207 – 111 trCN) 97
năm, quốc hiệu Nam Việt, kinh đô Phiên Ngung (gần Quảng Châu, Trung Quốc)
IV. Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ nhất (207 trCN-39) 246 năm
V. Trưng Nữ Vương (40 – 43) 3 năm
VI. Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến phương Bắc lần thứ hai (43 - 453): 500 năm. Bà Triệu
khởi nghĩa (248)
VII. Nhà tiền Lý và nhà Triệu (544-602) 58 năm, quốc hiệu Vạn Xuân, kinh đô Long Biên
VIII. Thời kỳ chống phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ ba - 336 năm (603-939)
IX. Thời kỳ xây nền tự chủ (905 - 938)
X. Nhà Ngô 26 năm (939-965), kinh đô Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội)
XI. Nhà Đinh 12 năm (968-980), quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư (huyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh Bình)
XII. Nhà Tiền Lê, kinh đô Hoa Lư (29 năm, 980 - 1009)
XIII. Nhà Lý (1010-1225) 215 năm, quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư. Năm 1010 dời đô về
Thăng Long. Từ 1054 đổi quốc hiệu là Đại Việt
DANH NHÂN THỜI LÝ
XIV. Nhà Trần 175 năm (1225 - 1400), quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Thăng Long
NHÂN VẬT LỊCH SỬ NỔI TIẾNG THỜI TRẦN
XV. Nhà Hồ (1400-1407): quốc hiệu Đại Ngu, kinh đô Tây Đô (Thanh Hóa)
XVI. Hậu Trần (1407-1414)
XVII. Thời kỳ đấu tranh chống nhà Minh đô hộ (1414-1427)
XVIII. Triều Lê sơ 99 năm (1428-1527), quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Đông Đô (Hà Nội)
XIX. Nhà Mạc 65 năm (1527-1592), kinh đô Đông Đô (Hà Nội)
Danh nhân thời Lê - Mạc
XX. Nhà Lê Trung Hưng: 255 năm (1533-1788)
Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh
XXI. Nhà Tây Sơn 24 năm 1778-1802, kinh đô Phú Xuân (Huế)
XXII. Nhà Nguyễn 143 năm (1802-1945), quốc hiệu Việt Nam (từ Minh Mạng là Đại Nam), kinh
đô Huế (Thừa Thiên)
Những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp trước khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời
XXIII. Nước Việt Nam mới
Những chiến thắng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc ta
Lời giới thiệu cuốn sách TÓM TẮT NIÊN BIỂU LỊCH SỬ VIỆT NAM
Nhằm đáp ứng yêu cầu tìm hiểu lịch sử nước nhà của số đông Bạn đọc đã gửi thư về Ban biên tập
trong thời gian qua, Tạp chí Quê Hương xin trân trọng giới thiệu cuốn sách "Tóm tắt niên biểu lịch sử
Việt Nam" do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành, người biên soạn là Hà Văn Thư và Trần
Hồng Đức. Chúng tôi xin đăng toàn văn "Lời giới thiệu" của Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Minh
Thảo viết về tài liệu này để Bạn đọc tham khảo.
Lịch sử là một khoa học kéo dài theo thời gian, người đọc dễ bị lôi cuốn và chìm trong biết bao sự
kiện nối tiếp nhau, đan xen lớn, nhỏ vô cùng phong phú.
Cuốn sách "Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam" do Hà Văn Thư và Trần Hồng Đức biên soạn giúp
cho người đọc biết được tiến trình dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam một
cách xuyên suốt và ngắn gọn.
Ở đây, người đọc có thể nắm bắt được những sự kiện lịch sử quan trọng nhất, những anh hùng dân
tộc và những nhân vật lịch sử có tác động lớn đến sự hình thành và phát triển của Tổ quốc Việt Nam.
"Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam" là một hình thức biên soạn lịch sử tốt, giúp người đọc tìm hiểu
lịch sử một cách nhanh chóng, thuận tiện và dễ hiểu, dễ nhớ mà vẫn trung thực, khoa học.
Tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này cùng bạn đọc.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
I. Truyền thuyết Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng - Lạc Long Quân
TÓM TẮT NIÊN BIỂU LỊCH SỬ VIỆT NAM
- Thời kỳ đồ đá cũ: 300.000 năm trước đây.
(Người vượn Việt Nam: Di tích núi Đọ, Văn hoá Sơn Vi)
- Thời kỳ đồ đá giữa: 10.000 năm trước đây (Văn hoá Hòa Bình)
- Thời kỳ đồ đá mới: 5 000 năm trước đây (Văn hoá Bắc Sơn, Bàn Trò).
Theo truyền thuyết thì thủy tổ dân tộc Việt Nam là Kinh Dương Vương, hiện còn có mộ tại làng An Lữ,
Thuận Thành, Bắc Ninh.
Kinh Dương Vương làm Vua vào khoảng năm Nhâm Tuất (hơn 2000 năm trước Công nguyên). Kinh
Dương Vương lấy con gái Thần Long là Vua hồ Động Đình sinh một con trai đặt tên là Sùng Lãm, sau
nối ngôi vua cha niên hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một
bọc một trăm trứng, một trăm trứng nở ra một trăm người con trai là tổ tiên của người Bách Việt.
Một hôm nhà Vua bảo bà Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung
hợp thật khó". Bèn từ biệt, chia năm chục người con theo mẹ lên núi , năm chục người con theo cha
về phía Nam miền biển, phong cho con trưởng làm Hùng Vương nối ngôi.
Hùng Vương lên ngôi Vua, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ),
chia nước ra làm 15 bộ:
1. Văn Lang (Bạch Hạc, Phú Thọ)
2. Châu Diên (Sơn Tây)
3. Phúc Lộc (Sơn Tây)
4. Tân Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)
5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)
7. Lục Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng Yên)
9. Dương Tuyền (Hải Dương)
10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình)
11. Cửu Chân (Thanh Hóa)
12. Hoài Hoan (Nghệ An)
13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)
14. Việt Thường (Quảng Bình - Quảng Trị)
15. Bình Văn (?)
Các đời Vua sau đều gọi là Hùng Vương, có 18 đời vua Hùng Vương(*) . Đặt các tướng văn gọi là
Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái Vua gọi là Mỵ Nương,
các quan nhỏ gọi là Bồ Chính.
Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng là nhà nước phôi thai đầu tiên của Việt Nam, còn rất đơn giản,
mặc dù mới hình thành nhưng đã cố kết được lòng người. Từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức
cộng đồng, thể hiện rõ tình đồng bào ruột thịt. Họ bước đầu hiểu được mối quan hệ giữa thiên nhiên
và con người, thấy được sức mạnh của cộng đồng trong việc làm thủy lợi, trao đổi sản phẩm và đấu
tranh giữ gìn bản làng, đất nước.
Thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần
đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt.
* Chú thích:
(*) Ngôi Hùng Vương cha truyền con nối 18 đời, kéo dài hơn 2000 năm làm cho nhiều người hoài
nghi và có nhiều cách giải thích khác nhau. Trong truyền thuyết con số 9 và bội số của 9
(18,36...99...) thường mang tính chất biểu tượng (số thiêng) chứ không có ý nghĩa toán học. Phải
chăng 18 đời vua cũng có ý nghĩa là nhiều đời, truyền nối lâu dài
Thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần
đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Đó là truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương và truyền
thuyết về Sơn Tinh - Thuỷ Tinh.
Phù Đổng Thiên Vương
Vào đời Vua Hùng Vương thứ 6 có giặc Ân rất mạnh, đã thôn tính nhiều nước xung quanh. Chúng kéo
sang xâm lược nước ta. Thế giặc rất mạnh, quan quân không sao chống cự nổi. Nhà Vua cho sứ giả
đi rao tìm người tài giỏi ra giúp nước.
Lúc bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có một nhà giàu đã 62 tuổi mới sinh được một con trai, lên
ba mà vẫn chưa biết nói. Cậu bé suốt ba năm chỉ nằm ngửa không tự ngồi hay đứng được.
Khi sứ giả đến làng rao cầu hiền, cậu bé thốt nhiên nói được và xin với cha cho mời sứ giả nhà Vua
vào hỏi chuyện. Khi sứ giả đến, cậu bé xin sứ giả về tâu Vua đúc cho cậu một con ngựa sắt, một
thanh kiếm, một cái nón sắt rồi cậu sẽ ra quân diệt giặc.
Từ khi sứ nhà Vua về làng, cậu bé mỗi ngày một lớn, ăn khoẻ lạ thường. Ngày tháng trôi qua, cậu lớn
phổng lên thành người khổng lồ.
Khi giặc Ân kéo đến chân núi Châu Sơn (thuộc Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) thì sứ giả đem ngựa, kiếm và
nón sắt dâng cho cậu. Cậu vươn vai đứng dậy rồi nhảy lên ngựa. Ngựa chạy đến đâu, miệng phun ra
lửa đến đó. Cậu xông vào đội ngũ giặc, sải kiếm chém giặc như chém chuối. Kiếm gẫy, cậu nhổ cả
các cụm tre mà đánh giặc. Không đương nổi sức mạnh thần diệu của chàng trai Phù Đổng, tàn quân
giặc quỳ gối xin hàng.
Phá xong giặc Ân, người Anh hùng làng Phù Đổng đi lên đỉnh núi Sóc Sơn, cả người lẫn ngựa bay
lên trời. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng và sắc phong là Phù Đổng Thiên Vương.
Sơn Tinh - Thủy Tinh
Vua Hùng Vương thứ 18 kén chồng cho con gái là Mỵ Nương. Sơn Tinh (Thần Núi) và Thủy Tinh
(Thần Nước) cùng đến cầu hôn. Hùng vương hứa gả con gái cho người nào ngày mai mang lễ vật
đến trước. Sơn Tinh đem lễ vật đến sớm hơn và được đưa Mỵ Nương về núi. Thủy Tinh đến sau nổi
giận dâng nước sông lên đánh Sơn Tinh. Nước dâng lên đến đâu Sơn Tinh làm cho núi đồi cao lên
đến đó. Cuối cùng Thủy Tinh thua trận phải rút nước. Hằng năm, cuộc chiến thường diễn lại.
Truyền thuyết này phản ánh các trận lụt ở lưu vực sông Hồng và việc đắp đê trị thủy của tổ tiên ta có
từ xa xưa.
Ngoài ra còn có các truyền thuyết tiêu biểu sau:
Thời đại Hùng Vương có nhiều truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh
thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Ngoài các truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương -
Thánh Gióng và Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, còn có các truyền thuyết về Bọc trăm trứng, về Bánh Dày -
Bánh Chưng, về Dưa hấu, về Chứ Đồng Tử, về Cột đá thề...
Bọc trăm trứng
Vua đầu nước ta - Kinh Dương Vương là cháu bốn đời Viêm Đế Thần Nông - vị thần trông coi nghề
nông ở trên trời). Kinh Dương Vương lấy Thần Long nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đi
tuần thú gặp Âu Cơ ở động Lăng Xương kết làm vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ sinh ra một
bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Khi các con khôn lớn, Lạc Long Quân nói: "Ta là giống Rồng,
nàng là giống Tiên, không thể ở lâu với nhau được". Bèn chia 50 con cho Âu Cơ đem lên núi, còn Lạc
Long Quân dẫn 49 người con xuống biển, để lại người con cả nối ngôi hiệu là Hùng Vương đặt tên
nước Văn Lang đóng đô ở thành Phong Châu, truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương.
Bánh Giày - Bánh Chưng
Vua Hùng thứ 6 muốn chọn con hiền cho nối ngôi, mới ban lệnh thi cỗ. Các hoàng tử ra sức tìm kiếm
sơn hào hải vị bày biện. Riêng Lang Liêu chỉ dùng gạo nếp thơm chế ra bánh giày, bánh chưng. Vua
thấy Lang Liêu hiếu thảo siêng năng, sáng chế ra hai bánh quý bèn truyền ngôi cho làm Hùng Vương
thứ 7
Nguồn gốc Dưa hấu
An Tiêm là con nuôi Vua Hùng, nói năng kiêu ngạo, bị đày ra đảo hoang. Vợ chồng An Tiêm chỉ được
mang theo một ít lương thực và con dao phát. Chàng thấy đàn quạ đến đảo ăn thứ quả da xanh lòng
đỏ, dây bò trên mặt đất. An Tiêm lấy một quả ăn thử thấy ngon ngọt khỏe người, bèn trỉa đất rắc hạt
trồng khắp đảo. Đến vụ thu hoạch chàng gọi thuyền buôn vào bán. Vua biết tin liền cho đón về.
Chử Đồng Tử
Công chúa Tiên Dung con Vua Hùng 18 thích du chơi phóng khoáng. Nàng cưỡi thuyền xuôi sông
Cái, đến bãi Tự Nhiên sai căng màn tắm. Không ngờ dội lớp cát trôi lộ ta chàng đánh cá ở trần vùi
mình trong hố, tên là Chử Đồng Tử. Tiên Dung cho rằng duyên trời xe, bèn lấy chàng làm chồng. Vua
cha biết tin giận sai quân đến bắt, thì cả vùng đất cùng Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên trời.
Cột đá thề
Vua Hùng Vương thú 18 không có con trai, nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn tức là Tản Viên.
Thục Phán là cháu Vua Hùng làm lạc tướng bộ lạc Tây Vu đem quân đến tranh ngôi, xảy ra chiến
tranh Hùng - Thục. Tản Viên khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Phán cảm kích dựng hai
cột đá trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thề rằng sẽ kế tục giữ nước và thờ tự các Vua Hùng. Phán sai thợ
đẽo đá dựng miếu trên núi và cho mời dòng tộc nhà vua đến ở chân núi lập ra làng Trung Nghĩa giao
cho trông nom đền miếu, cấp cho đất ngụ lộc từ Việt Trì trở ngược đến hết địa giới nước nhà. Lại sai
dựng miếu ở động Lăng Xương thờ bà mẹ Tản Viên, cấp đất ngụ lộc cho Tản Viên từ cửa sông Đà
trở lên phía Tây Bắc. Sau đó Thục Phán xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa đặt tên nước
là Âu Lạc.
II. Nhà Thục (257- 208 trCN) 50 năm, quốc hiệu Âu Lạc, kinh đô Phong Khê
(Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội)
Thục Phán thủ lĩnh của người Âu Việt (phía Bắc nước Văn Lang) hợp nhất với nước Văn Lang của
người Lạc Việt, xưng là An Dương Vương đặt quốc hiệu là nước Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa (Đông
Anh, Hà Nội).
Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng huy động 50 vạn quân, chia làm 5 đạo, đi chinh phục Bách Việt, chỉ
huy đạo quân Tần là viên tướng lừng danh Đồ Thư. Các Lạc Tướng đã suy tôn Thục Phán là lãnh tụ
chung để chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Tần. Người Việt làm chiến tranh du kích, vườn không
nhà trống, bền bỉ kháng chiến suốt gần 10 năm, đợi khi quân Tần lâm vào tình trạng mệt mỏi, chán
nản và khổ sở vì thiếu lương thực và ốm đau nhiều vì không hợp thủy thổ, lúc đó Thục Phán mới tổ
chức phản công quân Tần, bắn chết Đồ Thư. Mất tướng chỉ huy, quân Tần mở đường máu tháo chạy
về nước.
Sau chiến công vĩ đại đánh thắng 50 vạn quân Tần, An Dương Vương tổ chức xây thành Cổ Loa.
Thành có 9 vòng, chu vi vòng ngoài 8km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong cùng 1,6 km.
Với vị trí thuận lợi, với cách bố trí thành có 9 lớp, xoáy trôn ốc, thành cao, hào sâu, có các ụ cao khô
vượt ra ngoài lũy để có thể từ cao bắn xuống, với vũ khí nỏ thần và những mũi tên đồng lợi hại, sức
mạnh quân sự tổng hợp của thành Cổ Loa làm cho quân thù khiếp sợ thể hiện trí tuệ quân sự tuyệt
mạnh quân sự tổng hợp của thành Cổ Loa làm cho quân thù khiếp sợ thể hiện trí tuệ quân sự tuyệt
vời của tổ tiên ta. Ở ngoại thành Hà Nội ngày nay, vẫn còn thấy dấu tích 3 lớp thành Cổ Loa thời An
Dương Vương
III. Phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ nhất (207 trCN-39) – Nhà Triệu
(207 – 111 trCN) 97 năm, quốc hiệu Nam Việt, kinh đô Phiên Ngung (gần
Quảng Châu, Trung Quốc)
Triệu Đà, người Hán, huyện Chân Định, nhân lúc nhà Tần suy loạn giết Trưởng lại của nhà Tần,
chiếm giữ đất Lĩnh Nam, xưng đế đòi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi được 5 đời gần
100 năm.
Triệu Đà đánh mãi Âu Lạc không được, vì nước ta có thành Cổ Loa kiên cố, có nỏ thần tuyệt diệu.
Sau Triệu Đà dùng mưu hòa hoãn, rồi sai con trai là Trọng Thủy sang ở rể lấy Mỵ Châu, con gái An
Dương Vương. Trọng Thủy lấy cắp lẫy nỏ thần Kim Quy trốn về, rồi Triệu Đà đưa quân sang xâm
lược nước ta.
Triệu Đà cướp được nước ta, lập thành nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (ở tỉnh Quảng Đông,
Trung Quốc ngày nay). Từ đó nước ta thuộc Triệu.
1. Triệu Vũ Đế (Triệu Đà, 207-136 trCN):
Triệu Đà sinh năm 256 TCN, lên ngôi Vua năm 207 TCN đến năm 136 TCN thì mất, ở ngôi vua 71
năm, thọ 121 tuổi.
2. Triệu Văn Đế (Triệu Hồ, 136-124 trCN):
Triệu Hồ là con trai Trọng Thủy, cháu nội của Triệu Đà ở ngôi được 12 năm, thọ 52 tuổi.
3. Triệu Minh Vương (Triệu Anh Tề, 124-112 trCN):
Triệu Anh Tề ở ngôi được 12 năm.
4. Triệu Ai Vương (Triệu Hưng, 112-112 trCN):
Triệu Hưng ở ngôi chưa được 1 năm.
5. Triệu Dương Vương (Triệu Kiến Đức, 112-111 trCN):
Triệu Kiến Đức ở ngôi được gần 1 năm.
Năm 113 trCN nội tình nhà Triệu rất rối ren, Vua Hán sai An Quốc Thiếu Quý sang dụ Nam Việt về
hàng. Thiếu Quý nguyên là tình nhân của Cù Thị (mẹ của An Vương) nên tư thông với nhau và dụ dỗ
Ai Vương dâng nước Nam Việt cho nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia đã cùng với một số đại thần đem quân
cấm binh vào giết chết sứ nhà Hán. Cù Thị và Ai Vương tôn Kiến Đức là con trưởng của Minh Vương
lên làm vua. Vũ Đế nhà Hán sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem 5 đạo quân
sang xâm lược Nam Việt. Tể tướng Lữ Gia chống không nổi bèn đưa Dương Vương chạy trốn. Quân
Hán đuổi theo bắt được. Vua tôi đều bị hại. Nhà Hán chiếm được Nam Việt, đổi là Giao Chỉ bộ.
IV. Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ nhất
(207 trCN-39) 246 năm
Nhà Hán chia Giao Chỉ bộ ra làm 9 quận:
Nam Hải (Quảng Đông)
Thương Ngô (Quảng Tây)
Uất Lâm (Quảng Tây)
Hợp Phố (Quảng Đông)
Giao Chỉ (Bắc Bộ)
Cửu Chân (Thanh Hoá)
Nhật Nam (Nghệ Tĩnh)
Châu Nhai (Đảo Hải Nam)
Đạm Nhĩ (Đảo Hải Nam)
Nhà Hán đặt mỗi quận một viên thái thú và viên thứ sử để giám sát các quận. Còn các lạc tướng, lạc
hầu vẫn được giữ nguyên và được cha truyền con nối.
Sử cũ ca ngợi Tích Quang - Thái thú quận Giao Chỉ và Nhâm Diên - Thái thú quận Cửu Chân là
những người có công khai hoá, lấy lễ nghĩa dạy dân.
Đầu năm Giáp Ngọ (34). Vua Quang Vũ nhà Hán sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ. Tô
Định tham tàn, hà khắc, nhân dân sống trong cảnh vô cùng thống khổ.
V. Trưng Nữ Vương (40 – 43) 3 năm
Kinh đô Mê Linh
Thái thú Tô Định đã giết chết Thi Sách, con quan Lạc tướng Chu Diên, là chồng của Trưng Trắc, con
quan Lạc tướng Mê Linh. Trưng Trắc đã cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh đuổi Tô Định phải bỏ
chạy về nước. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp phố cũng nổi lên theo về với Hai Bà Trưng.
Đất nước sạch bóng quân thù, cả nước suy tôn Trưng Trắc lên làm vua là Trưng nữ Vương đóng đô
ở Mê Linh.
Trưng nữ Vương ra lệnh miễn thuế khoá cho dân hai năm. Năm Tân Sửu (41). Nhà Hán sai Mã Viện
đưa 20 vạn quân sang xâm lược nước ta.
Trưng nữ Vương và các tướng lĩnh của hai Bà Trưng đã đưa quân ra chống giặc từ biên giới, trước
thế giặc rất hung hãn, quân ta đã anh dũng chiến đấu, các trận chiến ác liệt đã diễn ra ở Lãng Bạc,
Đông Triều, Yên Phong, Hà Bắc. Hai Bà đã thu quân rút về giữ ở Cấm Khê (Thạch Thất - Quốc Oai),
hàng vạn người Việt đã ngã xuống trong các trận chiến ác liệt để bảo về tổ quốc thiêng liêng của
mình.
Ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão (43), sau khi đã phóng những mũi lao và bắn những mũi tên cuối cùng
vào kẻ thù, Hai Bà Trưng gieo mình xuống dòng sông Hát Giang tuẫn tiết. Cả nước vô cùng thương
tiếc, đã lập đền thờ ghi công đức của hai vị nữ anh hùng của dân tộc.
Chiếm được nước ta, kẻ thù sáp nhập vào Đông Hán. Mã Viện còn cho dựng cây đồng trụ ở chỗ
phân địa giới và cho khắc sáu chữ: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (cây đồng trụ đổ, thì người giao Chỉ
mất nòi), nhân dân ta ai qua đó cũng ném một hòn đá vào, dần dần thành gò cao, đến nay không biết
cột trụ ở đâu.
Các nữ tướng thời Hai Bà Trưng
Trong lịch sử Việt Nam và lịch sử các dân tộc trên thế giới đã xảy ra một sự kiện lịch sử thật kỳ lạ (và
chỉ xảy ra có một lần), đó là ngay thế kỷ đầu Công nguyên (39-40) dân tộc ta đã theo lời kêu gọi của
hai người phụ nữ trẻ tuổi (Trưng Trắc, Trưng Nhị) và đã tôn nhiều phụ nữ lên nắm quyền lãnh đạo
khởi nghĩa vũ trang để giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Có lẽ do khí thiêng sông núi, do truyền thống bất khuất và tinh thần thượng võ của dân tộc ta mới hun
đúc và sản sinh ra hai vị nữ anh hùng kiệt xuất và hàng chục nữ tướng tài ba như vậy:
Hai Bà Trưng đã được sử sách đời đời ghi chép công ơn, còn hơn hai mươi nữ tướng của Hai Bà
Trưng tài ba lỗi lạc tuy chưa được ghi trong chính sử, song sự tích kỳ tài của các nữ tướng anh hùng
đó đã được tạc trên bia đá, ghi vào thần phả và được nhân dân ta đời đời truyền tụng.
Chúng tôi xin giới thiệu danh sách các vị nữ anh hùng đó để minh họa cho sự kiện lịch sử đặc biệt
oanh liệt dưới thời Hai Bà Trưng.
1.Thánh Thiên - nữ tướng anh hùng: Khởi nghĩa Yên Dũng, Bắc Đái - Bắc Giang. Được Trưng
Vương phong là Thánh Thiên Công chúa. Hiện có đền thờ ở Ngọc Lâm, Yên Dũng, Bắc Ninh.
2. Lê Chân - nữ tướng miền biển: Khởi nghĩa ở An Biên, Hải Phòng, được Trưng Vương phong là Nữ
tướng quân miền Biển. Hiện có đền Nghè, ở An Biên, Hải Phòng thờ.
3. Bát Nạn Đại tướng: Tên thực là Thục Nương, khởi nghĩa ở Tiên La (Thái Bình), được Trưng
Vương phong là Bát Nạn Đại tướng, Trinh Thục công chúa. Hiện có đền thờ ở Phượng Lâu (Phù
Ninh, Phú Thọ) và Tiên La (Quỳnh Phụ, Thái Bình).
4. Nàng Nội - Nữ tướng vùng Bạch Hạc: Khởi nghĩa ở xã Bạch Hạc (thành phố Việt Trì, Phú Thọ
ngày nay) được Trưng Vương phong là Nhập Nội Bạch Hạc Thủy Công chúa. Hiện thành phố Việt Trì
có đền thờ.
5. Lê Thị Hoa - Nữ tướng anh hùng: Khởi nghĩa ở Nga Sơn (Thanh Hóa) được Trưng Vương phong
là Nữ tướng quân. Hiện ở Nga Sơn, Thanh Hóa có đền thờ.
6. Hồ Đề - Phó Nguyên soái: Khởi nghĩa ở Động Lão Mai (Thái Nguyên), được Trưng Vương phong
là Đề Nương công chúa lãnh chức Phó nguyên soái. Đình Đông Cao, Yên Lập (Phú Thọ) thờ Hồ Đề.
7. Xuân Nương, Trưởng quản quân cơ: Khởi nghĩa ở Tam Nông (Phú Thọ), được Trưng Vương
phong làm Đông Cung công chúa chức Nhập nội trưởng quản quân cơ nội các. Hiện có đền thờ ở
Hưng Nha (Tam Nông), Phú Thọ.
8. Nàng Quỳnh - Nàng Quế tiên phong phó tướng: Khởi nghĩa ở Châu Đại Man (Tuyên Quang), được
Trưng Vương phong làm tiên phong phó tướng. Hiện ở Tuyên Qua