Vị trí địa lí: Nằm cuối cùng đất nước về phía Nam, trọn vẹn trong lưu vực S. Đồng Nai và Cửu Long, là phần hạ lưu gần biển Đông.
=> tạo đặc điểm văn hóa riêng.
Khí hậu: có 2 mùa: mùa mưa và mùa khô.
Địa hình: chủ yếu là đồng bằng.
55 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1844 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đặc điểm môi trường tự nhiên và xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI. 1. Định vị vùng văn hóa Nam Bộ. 1.1 Không gian văn hóa. Vị trí địa lí: Nằm cuối cùng đất nước về phía Nam, trọn vẹn trong lưu vực S. Đồng Nai và Cửu Long, là phần hạ lưu gần biển Đông. => tạo đặc điểm văn hóa riêng. Khí hậu: có 2 mùa: mùa mưa và mùa khô. Địa hình: chủ yếu là đồng bằng. 2. Thời gian văn hóa. Nam Bộ là nơi có nhiều nền văn hóa cổ. Ở suối Gia Liêu, hang Gòn (Đồng Nai), Dầu Giây ( Lộc Ninh, Bình Phước) đã phát hiện những công cụ đá của nguời vượn, niên đại khoảng 300.000 năm trước, đồng thời trải qua sự đứt gãy. Tóm lại, vào đầu thế kỷ XVI, ngoại trừ vùng cư trú của các tộc người bản địa Stiêng, Chrau, Mạ ở Đông Nam Bộ, hầu hết đất đai Nam Bộ đều là hoang hoá. Kể từ thời điểm đó, các cộng đồng lưu dân người Khmer, người Việt, người Hoa, người Chăm mới nối tiếp nhau tiến vào Nam Bộ, chia nhau khai khẩn, đào kinh, canh tác, định cư, buôn bán, dần dần biến một vùng đất hoang vu rộng lớn thành những vùng nông nghiệp trù phú và những đô thị sầm uất. Nền văn hoá Nam Bộ cũng từ đó đã hình thành như một kết quả dung hợp giữa cái nền là văn hoá Việt với những yếu tố tiếp biến từ văn hoá Chăm, Khmer, Hoa... và cả phương Tây sau này. 1.3 Chủ thể văn hóa. Nam Bộ cũng là một vùng đất đa tộc người. Tuy nhiên, chủ thể văn hoá chính của toàn vùng vẫn là người Việt, tộc người đa số mà dân số ở riêng Nam Bộ lên đến hơn 26 triệu người, chiếm 90,9% dân số của vùng. Riêng ở tiểu vùng Tây Nam Bộ, chủ thể văn hoá chính bên cạnh người Việt còn có người Khmer và người Hoa. Do quê quán khác nhau và nhập cư vào những thời điểm khác nhau, nên người Hoa ở Việt Nam và Nam Bộ nói riêng là một tộc người không thuần nhất về nguồn gốc và ngôn ngữ. 2. Đặc điểm văn hóa Nam Bộ. Thứ 1: Do người dân ở đây đa số không phải dân bản địa nên văn hóa của họ là văn hóa vùng đất mới, đó là sự kết hợp giữa truyền thống văn hóa trong tiềm thức, trong dòng máu, và điều kiện lịch sử tự nhiên của vùng đất mới. Thứ 2: quá trình giao lưu văn hóa diễn ra với tốc độ mau lẹ trong ẩm thực, ngôn ngữ... Mặt khác, Nam Bộ có nhiều vùng văn hóa tín ngưỡng cùng đan xen tồn tại tạo nên sự đa dạng và phức tạp. 2.1 Cách thức hoạt động sản xuất. Do điều kiện địa lý đặc thù, nên cách thức hoạt động sản xuất của cư dân trên vùng đất phì nhiêu rộng lớn này mang đặc trưng đồng bằng sông nước rõ nét nhất, đồng thời cũng đa dạng nhất so với tất cả các vùng miền khác. Là vùng được bồi đắp luongj phù sa màu mỡ bởi 2 hệ thống sông lớn nên nghề lua nước phát triển mạnh mẽ. Nam Bộ cũng là vùng trồng cây công nghiệp lớn nhất nước. Sở hữu một vùng sông nước lắm thuỷ sinh và được biển bao quanh hai phía, Nam Bộ cũng là một ngư trường giàu có nhất nước, là cơ sở đề phát triển các nghề đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Nghề nuôi cá bè trên sông phát triển ở Đồng Nai, Châu Đốc... Các nghề thủ công truyền thống cũng khá phát triển. Bình Dương là nơi có nhiều làng nghề truyền thống với các nghệ nhân điêu khắc gỗ, làm đồ gốm và tranh sơn mài. Việc giao thương của vùng cũng mang đặc thù sông nước. Từ xưa, các trung tâm giao thương lớn của vùng đều được hình thành ven bờ sông rạch, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá: Nông Nại Đại phố, Mỹ Tho Đại phố, Sài Gòn, Cần Thơ... Đặc biệt ở miền Tây còn có các chợ nổi 2.2. Cách thức tổ chức xã hội cổ truyền. Đến Nam Bộ để khai hoang lập ấp, người Việt cũng theo truyền thống để tổ chức quần cư thành làng ấp. Tuy nhiên, về nội dung và hình thức, làng ấp của người Việt Nam Bộ có nhiều điểm khác biệt với làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Về nội dung, làng ấp của người Việt ở Nam Bộ là một tập hợp cư dân đến từ nhiều vùng, nhiều họ tộc khác nhau, gắn bó với nhau không phải do quan hệ dòng họ mà chủ yếu là do quan hệ láng giềng. Về hình thức, để tiện việc đi lại, làng ấp ở Nam Bộ thường hình thành dọc theo kinh rạch hoặc trục lộ, không có luỹ tre làng đóng kín. Do đó, tính cố kết cộng đồng của làng ấp Nam Bộ lỏng lẻo hơn làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. 2.3. Tín ngưỡng, phong tục, lễ hội. Về tín ngưỡng, là một vùng đất đa tộc người, Nam Bộ cũng là nơi gặp gỡ các tín ngưỡng tôn giáo sẵn có từ Bắc Bộ, Trung Bộ, đồng thời là cái nôi sinh thành những tín ngưỡng tôn giáo mới. Vì vậy, đây chính là vùng đất phong phú nhất về tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Phong tục của người Việt Nam Bộ cũng có nguồn gốc từ đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ, nhưng có tiếp biến thêm nhiều yếu tố từ phong tục của người Khmer, người Hoa. Lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo bao gồm các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, hội đền Linh Sơn Thánh mẫu ở núi Bà Đen, lớn nhất là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc, một lễ hội đặc trưng của cư dân Nam Bộ, hằng năm thu hút đến 2,5 triệu người hành hương và du khách. Lễ hội văn hoá - lịch sử bao gồm các lễ tết cổ truyền như tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ..., các lễ hội tưởng niệm các danh nhân có công mở đất như Nguyễn Hữu Kính, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu... Các lễ hội truyền thống của người Khmer bao gồm hai loại chính là các lễ hội có màu sắc Phật giáo (bon) như lễ Phật đản, lễ nhập hạ,, lễ cầu phước , lễ hội linh, lễ tang .. Các lễ hội văn hoá - lịch sử như lễ Tết, nghi lễ đắp các núi cát và tắm Phật,, lễ cúng tổ tiên, lễ cúng trăng (lễ đút cốm dẹp) Các nghi lễ vòng đời có lễ cắt tóc (đầy tháng), lễ giáp tuổi (12 tuổi), lễ đi tu cho nam giới, lễ cưới, lễ chúc thọ, và lễ tang dùng hình thức hoả táng. Lễ Tắm Phật Lễ Kỳ Yên Lễ Nghinh Ông Người Hoa ở Nam Bộ phần nhiều theo các tín ngưỡng dân gian và thờ cúng tổ tiên, thánh nhân được thờ cúng nhiều hơn thần linh, và Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Phước Đức Chánh Thần là ba vị thần được tôn sùng bậc nhất. Trong gia đình, người Hoa thờ các vị thần bảo hộ gia đình 2.4. Văn học, nghệ thuật. Nam Bộ có một kho tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú. Đó là các truyện dân gian phản ánh sự nghiệp khai phá đất đai, gắn liền với những danh thắng, di tích và nhân vật lịch sử. Đó là kho tàng ca dao và dân ca với các điệu hò, điệu lý, các bài hát huê tình, hát ru em, hát đồng dao, hát sắc bùa, hát thài, hát rối, hát vọng cổ, hát tài tử, v.v. Đặc biệt, hát vọng cổ và hát tài tử rất được người Nam Bộ ưa thích. Ngoài ra còn có nói vè, nói tuồng, nói thơ. Đây là loại hình tự sự dân gian khá phổ biến, nó thông tin nhanh những nỗi niềm, tâm sự. Trong đó, nói vè chiếm vị trí quan trọng, có những vè tiêu biểu như vè Chàng Lía, vè Trịnh Hâm thầy Thông Chánh... Truyện thơ và hình thức diễn xướng nói thơ cũng là một hoạt động văn nghệ dân gian phổ biến tại Nam Bộ, với các truyện thơ nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Phạm Công - Cúc Hoa... Hát bội (tuồng) từ miền Trung đưa vào đã phát triển mạnh mẽ trên đất Nam Bộ. Hầu hết các lễ hội thường có kèm theo hát bội. Ca nhạc tài tử phát sinh từ Gia Định rồi lan đến các tỉnh miền Tây, là một trong những cội nguồn của nghệ thuật cải lương là loại hình sân khấu mới ra đời tại Nam Bộ vào đầu thế kỷ XX. Hát Bội Hát vọng cổ Văn hóa bác học Văn hoá bác học ở Nam Bộ bước đầu phát triển với những thi đàn, thi xã như Tao đàn Chiêu Anh Các, Bình Dương Thi xã, Bạch Mai Thi xã, trường tư thục của Gia Định Xử sĩ Võ Trường Toản ở Hoà Hưng...Ông nghè đầu tiên của Nam Bộ là Phan Thanh Giản đã làm Tổng tài biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Trong thời kỳ cận đại, Nam Bộ có nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu nổi tiếng, như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Thông, Hồ Biểu Chánh, Trần Chánh Chiếu, Sương Nguyệt Anh, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, v.v. Các sản phẩm văn hoá gốc phương Tây như chữ quốc ngữ, nhà in, báo chí, tiểu thuyết, thơ mới, trường học kiểu phương Tây, Âu phục... đều được phổ biến ở Nam Bộ trước tiên rồi mới phổ biến đến các vùng miền còn lại. 2.6. Di tích văn hóa-lịch sử Là vùng đất mới, nhưng Nam Bộ cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử - văn hoá như Văn miếu Trấn Biên, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai; di tích Rạch Gầm-Xoài Mút v.v. Văn miếu Trấn Biên, di tích Rạch Gầm-Xoài Mút. Âm nhạc bao gồm nhạc sân khấu và nhạc dân gian. Nhạc cụ rất đa dạng, trong đó tiêu biểu là dàn nhạc gõ , thường được sử dụng trong những lễ nghi của Phật giáo, đám tang, đám cưới và các lễ hội dân gian. Dàn nhạc có 5 bộ, gồm bộ hơi, bộ da, bộ đồng, bộ sắt, bộ mộc, nhưng người Khmer vẫn gọi là dàn nhạc gõ vì đa số các nhạc cụ đều phải gõ để phát âm. Tiêu biểu nhất trong loại hình nghệ thuật sân khấu là kịch hát Rôbam và kịch hát Yukê. Dàn nhạc 2.7. Cách thức ăn, mặc, ở, đi lại. Ẩm thực: truyền thống, bảo đảm cân bằng âm dương và theo quy luật ngũ hành tương sinh tương khắc của người Việt nói chung. Bánh canh Trảng Bàng. Bún nước lèo Trà Vinh. Cốm dẹp trộn dừa Trà Vinh. Về trang phục: do sống trong môi trường sông nước, nông dân người Việt ở Nam Bộ, cả nam và nữ, rất thích chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn. Chiếc khăn rằn được dùng để che đầu, lau mồ hôi, và có thể dùng quấn ngang người để thay quần. Chiếc áo bà ba gọn nhẹ rất tiện dụng khi chèo ghe, bơi xuồng, lội đồng, tát mương, tát đìa, cắm câu giăng lưới, và có túi để có thể đựng một vài vật dụng cần thiết. Trang phục người Chăm Nam Bộ Nhà ở của người Việt Nam Bộ có ba loại chính: nhà đất cất dọc theo ven lộ, nhà sàn cất dọc theo kinh rạch, và nhà nổi trên sông nước. Nhà nổi: cư trú, mưu sinh của những gia đình theo nghề nuôi cá bè, vận chuyển, buôn bán trên sông. Người Khmer trước đây đều ở nhà sàn. Để đi lại, vận chuyển, các tộc người cư trú nơi đây đều phải lựa chọn những phương tiện phù hợp với các địa hình đặc trưng của không gian Nam Bộ. Ở trên đất liền thì các cư dân Nam Bộ dùng xe bò, xe ngựa, xe đạp, xe thồ, xe tải... Ở vùng sông nước thì dùng xuồng, ghe, tắc ráng, vỏ lãi, tàu, bè, bắc (phà), cộ... Ở miền Tây sông nước, xuồng ghe có vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là phương tiện vận chuyển tiện dụng cho tất cả mọi người, vừa là phương tiện mưu sinh và phương tiện cư trú của một số lớn cư dân làm nghề đò ngang, đò dọc, buôn bán và nuôi cá trên sông. 2.6. Giao lưu, tiếp biến văn hoá. Không gian văn hoá Nam Bộ là phần mở rộng của không gian văn hoá Việt Nam trên một vùng đất mới mà ở đó, chung tay khai phá với người Việt còn có các tộc người bản địa và các tộc người di dân. . Hệ quả là hầu như không có hiện tượng văn hoá nào ở nơi đây còn nguyên chất thuần Việt mà luôn có bóng dáng của những nền văn hoá khác, đã hội tụ nơi đây trong hơn ba thế kỷ qua. Cho nên, có thể nói, giao thoa văn hoá chính là một trong những bản sắc của văn hoá Nam Bộ. Nó khiến cho văn hoá Nam Bộ vừa tương đồng, lại vừa khác biệt với cội nguồn của nó là văn hoá Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Tuy nhiên, văn hoá Nam Bộ không chỉ là con số cộng các luồng văn hoá đã hội tụ mà trong quá trình giao thoa văn hoá, cư dân Việt nơi đây đã không tiếp thu trọn gói các nền văn hoá khác mà chỉ những yếu tố đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần để bổ sung vào hành trang văn hoá mang theo. Vì vậy, văn hoá Việt nơi đây không tự đánh mất mình mà chỉ tái tạo các giá trị văn hoá mà vùng đất này thu nạp được theo hướng làm cho nó thích ứng với văn hoá Việt, với nhu cầu của người Việt trên vùng đất mới. Có thể nói, sự tái tạo các giá trị văn hoá đó cũng là một bản sắc của văn hoá nơi đây. Bên cạnh sự tiếp biến văn hoá, văn hoá Nam Bộ còn mang đặc trưng đồng bằng sông nước. Hai đặc trưng văn hoá chủ đạo này của vùng đất Nam Bộ đã buộc tất cả các nền văn hoá sinh tụ nơi đây đều phải tự cấu trúc lại, lược bỏ những giá trị không còn phù hợp với môi trường mới, phát triển hoặc sáng tạo những giá trị mới giúp con người có thể tồn tại và phát triển trên một vùng đồng bằng sông nước, đan xen những tộc người khác biệt nhau về văn hoá. Vì vậy, uyển chuyển, linh động, phóng khoáng, bao dung, dần dà đã trở thành bản sắc thứ ba của văn hoá Việt ở Nam Bộ và văn hoá Nam Bộ nói chung.