Tóm tắt
Tín ngưỡng và lễ hội là hai hình thái gắn với tâm linh. Lễ hội trong truyền thuyết có hai loại: lễ hội sinh
hoạt và lễ hội cầu an. Truyền thuyết lễ hội thường gắn với việc lí giải gốc tích của nó. Tín ngưỡng có
hai phương diện: tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng tôn giáo. Tín ngưỡng dân gian gồm tín ngưỡng thờ
Mẫu, tín ngưỡng nhiên thần, tín ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ cúng người có công. Tín ngưỡng
tôn giáo gồm tín ngưỡng Phật giáo và Đạo giáo. Hai loại tín ngưỡng này trong truyền thuyết ảnh hưởng
giao thoa lẫn nhau. Lễ hội và tín ngưỡng trong truyền thuyết thể hiện đặc điểm về đời sống tâm linh của
người Việt.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm tín ngưỡng và lễ hội trong truyền thuyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 (33) - Thaùng 10/2015
3
Đặc điểm tín ngưỡng và lễ hội trong truyền thuyết
Beliefs and festivities in legendary
PGS.TS. Lê Đức Luận
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng
Assoc.Prof., Ph.D. Le Duc Luan
The University of Da Nang – University of Education
Tóm tắt
Tín ngưỡng và lễ hội là hai hình thái gắn với tâm linh. Lễ hội trong truyền thuyết có hai loại: lễ hội sinh
hoạt và lễ hội cầu an. Truyền thuyết lễ hội thường gắn với việc lí giải gốc tích của nó. Tín ngưỡng có
hai phương diện: tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng tôn giáo. Tín ngưỡng dân gian gồm tín ngưỡng thờ
Mẫu, tín ngưỡng nhiên thần, tín ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ cúng người có công. Tín ngưỡng
tôn giáo gồm tín ngưỡng Phật giáo và Đạo giáo. Hai loại tín ngưỡng này trong truyền thuyết ảnh hưởng
giao thoa lẫn nhau. Lễ hội và tín ngưỡng trong truyền thuyết thể hiện đặc điểm về đời sống tâm linh của
người Việt.
Từ khóa: tín ngưỡng, lễ hội, tâm linh, dân gian, tôn giáo, Phật giáo, Đạo giáo
Abstract
Beliefs and festivities are two forms associated with spirituality. Festival in the legendary has two
categories: domestic festivals and festival for security and protection (peace). Legendary festivals are
often associated with the introduction explaining its origin. Belief has two aspects: folk beliefs and
religious beliefs. Folk beliefs include the Holy mother religion, worship of nature gods religion, fertility
beliefs and worship persons. Religious beliefs include Buddhism and Taoism. These two types of belief
in the legendary have mutual influence and interference on each other. Festivals and beliefs in the
legendary show the characteristics of the spiritual life of the Vietnamese people.
Keywords: beliefs, festivities, spiritual, folk, religion, Buddhism, Taoism
1. Dẫn nhập
Tín ngưỡng và lễ hội là hai hình thái
gắn với tâm linh. Lễ hội bắt nguồn và duy
trì bởi tín ngưỡng còn tín ngưỡng là bản
chất của lễ hội. Mặt khác lễ hội là hình
thức sinh hoạt vui chơi của cộng đồng. Lễ
hội và tín ngưỡng được thể hiện trong
truyền thuyết thường gắn với một sự tích
và một nhân vật cụ thể. Lâu nay, việc
nghiên cứu truyền thuyết về lễ hội và tín
ngưỡng chưa được chú trọng trong các
giáo trình đại học. Đặng Văn Lung trong
cuốn Lịch sử và văn học dân gian, khi đề
cập đến các loại truyền thuyết có nói đến
truyền thuyết về phong tục: “truyền thuyết
lich sử (Truyện Nam Man, Truyện An
Dương Vương, Truyện Trưng Trắc và Thi
Sách); truyền thuyết địa danh; truyền
thuyết về vật tổ (Truyện Chim-Rồng,
Truyện Điếu Điểu); truyền thuyết về vật
thiêng (Thần Đồng cổ, Thuyền Đồng, Đá
thần, Truyện Mộc Đa, Trâu thần, Ngựa
4
thần); truyền thuyết về Shaman (phương
thuật, biến hình); truyền thuyết về phong
tục, luật lệ, làm ăn; truyền thuyết về nhận
dạng (giao ngón chân)” [7,tr.70-73]. Tuy
tác giả không nêu tín ngưỡng nhưng nó là
một phương diện của phong tục.
Tín ngưỡng được đề cập đến trong hai
thể loại: truyền thuyết và cổ tích hoang
đường. Tuy nhiên cách thức thể hiện khác
nhau. Truyền thuyết về tín ngưỡng thường
chủ đích lí giải nguyên do của một tín
ngưỡng gắn với thần tích một làng xã còn
cổ tích thì thường gắn với một vấn đề nhân
sinh. Bài viết này nhằm góp phần phác
thảo đặc điểm của một số lễ hội truyền
thống và tín ngưỡng được phản ánh trong
truyền thuyết Việt Nam.
2. Đặc điểm lễ hội và tín ngưỡng
trong truyền thuyết
2.1. Đặc điểm một số loại lễ hội
truyền thống và ý nghĩa nhân văn
2.1.1. Đặc điểm về kiểu loại
a. Lễ hội sinh hoạt
Lễ hội hát Xoan, truyện Sự tích hát
Xoan kể gốc tích lễ hội hát Xuân, tục gọi là
hát Xoan do nàng Quế Hoa xinh đẹp, múa
giỏi, hát hay giúp vợ vua Hùng sinh nở đỡ
đau và sinh nở. Vua Hùng vui mừng, hết
lời khen ngợi, mới bảo các Mị Nương học
lấy các điệu múa hát và gọi là hát Xuân,
tục gọi là hát Xoan. Vợ vua Hùng sinh con
vào mùa xuân nên được gọi là hát Xuân.
Lễ hội hát Huầy dô kể Sơn Tinh và
các bộ hạ đi chơi xuân qua vùng sông Tích,
nay là xã Liệp Tuyết huyện Ba Vì, thấy
ruộng đất phì nhiêu, bèn gọi dân làng bày
cách chọn hạt lúa to đem gieo, rồi đi chu
du, hẹn đến ngày lúa chín sẽ quay về. Ba
mươi sáu năm sau, Tản Viên mới quay trở
lại thì thấy dân làng đã giàu có đông đúc.
Tản viên cho gọi trai gái trong làng ra dạy
múa hát mở hội mừng no ấm. Từ đó trở đi
dân làng xây đền thờ Tản Viên và cứ 36
năm thì mở hội hát một lần vào dịp mồng
10 đến 15 tháng giêng âm lịch. Trong các
chặng hát người ta đồng thanh xướng
những tiếng Huầy dô và múa bơi chèo. Vì
vậy, người đời sau gọi dó là hội múa Dô
hay múa Huầy dô.
Lễ hội hát Quan Họ, truyện Vua Bà kể
lễ hội này gắn với Nhữ Nương có giọng hát
hay, lưu lạc tới vùng Viêm Xá sông Cầu,
vừa làm vừa hát những câu cô nghĩ ngợi ra,
người già nghe thấy trẻ lại, người trẻ nghe
thấy tay chân tự nhiên gõ nhịp, miệng mấp
máy hát theo. Cô bày cho các bạn cùng hát,
bên gái bên trai họp thành bọn, hát đối đáp
thâu đêm. Dân làng tôn Nhữ Nương là đức
Vua Bà [10],[12].
b. Lễ hội cầu an
Lễ hội Múa Bông đánh bệt trong
truyện kể quan Thượng Rồng Trần Cảnh,
người làng Điền Trì, Quốc Tuấn, Nam
Sách, khi về quê thấy làng xóm tiêu điều,
cọp thường về bắt người bắt trâu, quan cho
lính tập dượt đánh cọp để xua thú dữ. Từ
đó vào hội xuân năm nào cũng có tiết mục
múa bông đánh bệt (gọi tránh tên cọp).
Lễ hội cướp con, truyện Đinh Thiên
Tích kể ở Bích Đại và Đồng Vệ thời vua
Hùng có người tên là Đinh Thiên Tích bày
ra phép rước cầu, mọi người mặc áo xanh
đỏ, vác cày bừa và bện trâu bằng rơm rước
đi, lại làm một cái chòi, một cụ già nhất
làng cầm cái túi đựng thóc ngô, đỗ kê trèo
lên chòi khấn trời đất rồi ném các thứ hạt
đó ra cho mọi người nhặt. Sau đó cụ lại
tung chày kênh đẽo bằng gỗ vuông, mo đài
cho mọi người cướp, gọi là cướp con, ai
cướp được thì năm đó sẽ sinh nở [10],[12].
2.1.2. Ý nghĩa nhân văn
Lễ hội sinh hoạt gắn với các hình thức
diễn xướng dân gian. Lễ hội Hát Xoan có ý
nghĩa cầu mong sự sinh sôi gắn với mùa
xuân. Cây cối đâm chồi vào mùa xuân. Sự
sinh nở biểu tượng của mùa xuân đến vì
mùa xuân gắn với sự sinh sôi phát triển.
Phải chăng lễ hội này gắn với văn hóa
5
phồn thực bởi loại hình văn hóa này
khuyến khích sinh nở. Hát Xuân đọc chệch
thành hát Xoan là lễ hội kích thích sự sinh
sôi, phát triển. Mặt khác, lễ hội này đề cao
vai trò của âm nhạc trong việc gây phấn
kích, hứng khởi cho sự sáng tạo nói chung
và sự sinh nở nói riêng. Lễ hội hát Huầy dô
là loại lễ hội gắn với nông nghiệp. Nếu lễ
hội Hát Xoan kích thích sự sinh sôi thì lễ
hội này ăn mừng sự sinh sôi. Mùa màng
bội thu, con người đông đúc giàu có cũng
là sự sinh sôi. Lễ hội hát Quan Họ ghi
công và tôn vinh người sáng tạo ra hát
Quan họ. Lễ hội gắn kết mọi người với
nhau theo từng nhóm bạn. Tiếng hát trở
thành nhịp cầu, chất xúc tác cho thanh niên
nam nữ gặp gỡ thân tình và cho người già
tươi vui, trẻ trung hơn. Lễ hội này nêu lên
một nhu cầu giao tiếp giữa hai phái nam nữ
với nhau qua hình thức hát đối đáp, góp
phần chống lại quan điểm của Nho giáo là
nam nữ không được gần nhau và tiếp xúc
tự do với nhau.
Lễ hội cầu an trong hình thức lễ hội
Múa Bông đánh bệt và lễ hội cướp con là
các trò diễn dân gian qua đó nhân dân cầu
mong sự an lành, sung túc, no ấm. Lễ hội
Múa Bông đánh bệt là dấu ấn của việc săn
bắt thú rừng và trừ diệt thú dữ làm hại dân
sinh. Lễ hội cướp con gắn với nông nghiệp
và văn hóa phồn thực cầu mong được mùa
và sinh con đẻ cái được thuận lợi.
Như vậy, lễ hội sinh hoạt và cầu an
đều có nguồn gốc từ tín ngưỡng phồn thực
gắn với nghề nông, mong sự an lành, sinh
sôi, no ấm.
2.2. Đặc điểm tín ngưỡng
2.2.1. Đặc điểm kiểu loại và ý nghĩa
tâm linh
2.2.1.1. Tín ngưỡng dân gian
a. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng thờ Mẫu gắn với công
trạng các nữ có công khai phá vùng sơn địa,
lập làng. Truyện Thánh Mẫu Thượng ngàn,
truyện kể rằng công chúa Quế Nương, con
của vua Hùng thứ 14 và hoàng hậu An
Nương có công lao khai sơn lập làng.
Chẳng bao lâu, nơi đây trở nên trù phú.
Tín ngưỡng thờ Mẫu gắn với tín
ngưỡng Phật giáo, vị Bồ tát cứu nhân độ
thế được mẫu hóa. Truyện Bà Đênh-Linh
sơn thánh mẫu kể cách tỉnh lỵ Tây Ninh
khoảng trên 10 cây số, ngọn núi có đền thờ
bà Đen, mọi người tin nàng đã hiển thánh
giúp dân lành tai qua nạn khỏi. Nhân dân
miền Nam thì gọi là Phật Bà. Bản khác kể
rằng ngày xưa núi Bà Đen gọi là núi Một,
trên đó có tượng Phật rất linh thiêng. Lý
Thị Thiên Hương là cô gái văn hay, võ
giỏi, xinh đẹp, năm 18 tuổi bị bọn cướp
rượt té xuống hố mà chết rồi hiển linh.
Quan thượng Quốc công Lê Văn Duyệt
thay mặt triều đình phong nàng là Linh Sơn
Thánh Mẫu.
Tín ngưỡng thờ Mẫu gắn với thờ cúng
bà mẹ xứ sở trong quá trình mở đất của
người Việt phương Nam. Truyện Bà Chúa
Xứ kể rằng Bà Chúa Xứ ở dưới chân núi
Sam, gọi là Vĩnh Tế sơn, thuộc Châu Đốc,
không rõ lai lịch nhưng cả người Khme và
người Việt đều thờ, dân địa phương tôn là
Bà Chúa Xứ. Có lần Thoại Ngọc Hầu đánh
nhau với quân Xiêm, nhờ bà Phù hộ nên
giành chiến thắng và sau đó vợ ông đã bỏ
tiền ra tu sửa lại miếu bà.
Sự kết hợp tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt và người Chăm trong hình
tượng Mẫu Thiên Ya Na. Truyền thuyết về
Thiên Ya Na kể rằng thuở xưa tại vùng núi
Đại An (nay thuộc xã Diên Điền, huyện
Diên Khánh, Phú Khánh) có ông lão sống
bằng nghề trồng dưa thấy một cô bé diện
mạo khác thường và hoàn cảnh đáng
thương, ông đem về nhà nuôi, thương như
con đẻ, ngờ đâu có bé ấy là Thiên Ya Na
hóa thân.
Truyền thuyết về Thiên Ya Na còn là
tín ngưỡng thờ thần tự nhiên trong dạng
6
thần cây. Truyện kể rằng khi bị cha mẹ
nuôi quở trách, hối hận vì mình làm cho họ
phiền lòng, cô hóa thân vào khúc gỗ trầm
đang trôi trên dòng sông, nước lũ cuốn đi
dạt vào bờ biển Bắc. Dân chúng thấy gỗ
quý, xúm nhau định khiêng về nhưng có
đến hàng trăm người cũng không tài nào
khiêng nổi. Tin đồn đến tai Thái tử, chàng
ra tận nơi nhấc thử thì khúc gỗ nâng lên
nhẹ như lông hồng, cho là điềm lạ, chàng
đem khúc gỗ về cung cất giữ. Thế rồi một
đêm, chàng bắt gặp cô xuất hiện và nhanh
chóng giữ cô lại trước khi cô hóa thân vào
khúc gỗ trầm. Không cách gì hơn, cô đành
kể hết sự thật, chàng đem lòng yêu mến rồi
xin vua cha kết duyên chồng vợ, sinh được
hai người con, trai tên là Tri, gái tên là
Qùy. Một ngày kia, nhớ quê hương, cha
mẹ, nàng bỏ hoàng cung, trốn thái tử, cùng
con biến vào khúc gỗ men theo dòng nước
biển trôi về quê hương người Chăm tại cửa
bể Cù Huân. Cha mẹ đã mất, nàng bèn lập
miếu thờ ông bà trên núi Đại An, sau Thiên
Ya Na về núi Cù Lao.
Truyền thuyết về Thiên Ya Na có ảnh
hưởng của tín ngưỡng đạo giáo về nguồn
gốc ở Tiên cung, có phép biến hóa. Truyện
kể rằng Thiên Ya Na rất linh ứng, thường
hiện ra cưỡi voi trắng dạo chơi trên đỉnh
núi, thành tấm lụa trắng bay trên không
trung, có khi cưỡi cá sấu qua lại giữa núi
Cù Lao và Hòn Yến. Mỗi lần Thiên Ya Na
đi lại như vậy thường có tiếng nổ như sấm,
tiếp đến là hào quang rực sáng cả một vùng
[10].
b. Tín ngưỡng thờ nhiên thần
Tín ngưỡng thờ Núi, thờ Đất gắn với
tín ngưỡng âm phù: Truyện Thần núi Đồng
cổ, Sự tích thần núi Đồng cổ kể rằng thần
núi Đồng cổ, tục gọi là núi Khả Phong,
thuộc địa phận xã Đan Nê, huyện An Định,
Thanh Hóa, hiển linh âm phù giúp Hùng
Vương, Lý Thái Tông thắng giặc Chiêm,
vua sai quân gia tạ lễ rồi rước về kinh đô.
Lý Thái Tổ mất, Lý Thái Tông được lên
ngôi, có ba người anh em định làm phản
cướp ngôi, thần báo mộng, quả y như thế,
nhờ Lê Phụng Hiểu giúp mới phá được.
Truyện Đống chải đầu kể rằng ngày xưa,
đầu làng Sấu có một cái đống nhô lên giữa
hồ, ban ngày thì cái đống nhưng ban đêm
thành hình một cô gái khổng lồ đứng chải
tóc giữa hồ. Đến khi có giặc Hán xâm lược,
cô biến thành nữ tướng chiêu binh đánh
giặc, trai tài gái giỏi đến đầu quân như
nước. Sau khi đất nước yên bình, cô lại trở
về cái đống giữa hồ. Người ta lập đền thờ,
và gọi cái đống là đống chải đầu nhưng sợ
cô quở nên gọi chệch đi là Đống Giải. Hai
truyện trên không chỉ là tín ngưỡng nhiên
thần mà còn là tín ngưỡng nhân thần.
Tín ngưỡng thờ Đá: Truyền thuyết
tượng Nghè kể rằng ngày xưa, ở làng
Phương Sơn nay thuộc xã Triệu Sơn có anh
nhà nghèo sống bằng nghề nhủi cá. Nhưng
có lần hết cả buổi mà anh vẫn chưa bắt
được con nào mà sau mỗi lần nhủi chỉ thấy
hòn đá nằm trong nhủi. Anh quẳng nó đi
thật xa nhưng mỗi lần cất nhủi lại thấy nó.
Lo sợ trước việc này, anh đem hòn đá rửa
sạch, đặt ngay ngắn trên bờ ruộng rồi quỳ
xuống cầu nguyện rằng xin hòn đá đừng
quấy rầy anh, cho anh nhủi được nhiều cá
sống qua ngày, nếu được như thế sẽ mang
hòn đá về thờ. Quả như nguyện, từ đó anh
thờ cúng hòn đá như một vị thần. Điều lạ là
hòn đá ngày một lớn và ngày càng giống
người. Anh hoảng sợ báo cho làng xóm
biết, bà con cho là vị thần hộ dân nên lập
miếu thờ, tôn là tượng ông Nghè. Truyện
này nêu rằng tín ngưỡng bắt nguồn từ sự
linh thiêng và ứng nghiệm.
Tín ngưỡng thờ Cây kết hợp với tín
ngưỡng thờ thần nước: Truyện vị thần làng
Bố Cái kể rằng thần làng Bố Cái là tinh của
Viêm Long. Xưa ở làng Hạn Kiều, lộ Hạ
Hồng có 2 anh em Thiện Minh và Thiện
Xạ xuống biển đánh cá gặp một vật lạ như
7
hình cây gỗ, dài hơn 3 thước dập dềnh trôi
theo ngọn sóng, hai anh em nhặt lấy đem
về. Đến đêm bỗng nghe trong vật ấy có
tiếng động, hai anh em kinh hãi vội vất ra
dòng nước, sau đó anh em mộng thấy một
người đến xưng là vợ Đông hải Long
vương, trót lỡ đi lại với Viêm Long vương
sinh ra đứa con ấy, sợ Đông hải Long
vương biết nên đem gửi các ngươi, sau này
nó trưởng thành tất sẽ ban phúc cho các
ngươi. Tỉnh dậy, hai anh em lại thấy cây gỗ
trôi theo thuyền bèn đem về, đến Bố Cái
cây gỗ bè nhảy lên mặt đất. Hai anh em
bèn lập đền thờ, lấy cây gỗ tạc tượng thờ,
gọi là Long Quân.
Tín ngưỡng thờ Rắn trong truyện Bạch
xà nương kể rằng vào đời Ngô Quyền
chống quân xâm lược nhà Hán, Dương
Đình Nghệ bị tên phản bội Kiều Công Tiễn
đánh thuốc độc chết rồi giết cả gia đình
ông. Chỉ có người hầu gái là Tiết Thị Huệ
chạy thoát liền liên kết với thủ hạ của ông
Dương để trả thù nhưng mưu kế bại lộ,
nàng bị hại. Cô mất, hồn hiện thành con
rắn trắng hiển linh đến doanh trại Ngô
Quyền quấn vào người ông đang ngủ, Ngô
Quyền tỉnh giấc thì đúng lúc người đưa tin
dữ đến. Ngô Quyền đem binh giết bọn
Kiều Công Tiễn và kéo binh giao chiến với
quân Nam Hán. Trong trận đánh, người ta
thấy con rắn hiện ra phun một luồng khói
mịt mù làm quân giặc bối rối. Sau thắng
lợi, nhân dân lập đền thờ con rắn, tôn là
Bạch Xà nương, đền chính dựng ở làng
Đằng Trung, Thanh Hóa. Truyện này thể
hiện tín ngưỡng rắn báo oán, phù trợ cho
ân nhân.
Tín ngưỡng thờ thủy thần trong hình
thức thờ Rắn cũng chính là thần sông:
Truyện Sự tích sông Độc kể thần Rắn giúp
chúa Trịnh khi đi trên Sông Độc, nguồn từ
sông Hát chảy ra, là nhánh của sông Phú
Lương (sông Nhị). Chỗ ngã ba sông có
miếu thờ thần sông thiêng lắm, thuyền
buôn qua lại phải sửa đồ lên lễ không thì
thuyền tan. Khoảng năm Cảnh Hưng, chúa
Trịnh ngự giá tuần du phương Nam, khi
thuyền qua chỗ ấy, dưới sông bỗng nổi lên
một bãi cát, thuyền không đi được, chúa sai
khơi đào, đào đến đâu lại đầy đến đấy.
Chúa sai người lên lễ, hứa sẽ thăng trật,
bỗng chốc dưới sông xuất hiện 2 con rắn
dài hơn 10 thước, to bằng ống tre, bò qua
bãi cát ấy, bò đến đâu, cát rẽ đến đấy, nước
lại đầy như cũ.
Tín ngưỡng thờ Thủy thần: Truyện
Thánh Linh Lang, Sự tích Thần Linh Lang
(Thần tích trại Thủ Lệ) kể rằng Hạo
Nương, vợ của Lý Thánh Tông. Một ngày
phi ra hồ Dân Đàm tắm gội, Long thần ở
dưới hồ bơi tới quấn lấy thân phi, sau tự
thấy có thai 14 tháng sinh ra một con trai
khôi ngô tuấn tú, rồi sau 7 tháng thì bệnh
đậu phát sinh, sau đó hóa, biến thành con
giao long trên 100 thước bò vào hang đá ở
giữa dinh thự rồi bò ra hồ Dâm Đàm mà
lặn biến đi. Đến triều Lý Nhân Tông, vua
thường xem cá ở hồ Dâm Đàm thấy cô gái
giặt lụa bên hồ, vua thương yêu mang về
cung sau đó nàng sinh một bọc hai con trai:
anh là Linh Long và em là Lương Long.
Được mấy tháng mà hai anh em biết nói,
đầy tuổi thôi nôi thì xin từ biệt vua về trời.
Vua cử quan Trung sứ tống tiễn, ra đến cửa
thì biến thành rồng bò xuống dòng Độc
Giang ở Hoài An (nay thuộc Hương Sơn,
Hà Tây) lặn biến đi. Đến triều Trần có hai
vị Dực vương và Vệ Vương là hóa thân lần
thứ ba của thần. Truyện này liên quan đến
tín ngưỡng Đạo giáo về sự hóa thân, hóa
kiếp của Long thần dưới dạng các nhân vật
thuộc dòng vua chúa [10].
c. Tín ngưỡng phồn thực
Tín ngưỡng thờ sinh thực khí: truyện
Sự tích miếu bà Chúa Ngựa kể rằng vùng
huyện Cẩm Giàng và Gia Phúc có miếu thờ
Bà Chúa Ngựa, vốn là một đàn bà dâm, hễ
gặp đàn ông là tư thông mà không ai làm
8
xuể lòng dục. Chuyện đến tai quan, quan
sai bắt đan một cái giỏ hình ngựa, nhét
người đàn bà ấy vào để thông dâm với
ngựa đực. Người đàn bà ấy chết thành thần,
những người đến cúng lấy lõi mít làm hình
dương vật để cúng. Khát vọng nam nữ gần
gũi và sung mãn trong chuyện ái ân là một
khát vọng chính đáng vì nhu cầu phát triển
giống nòi. [10]
d. Tín ngưỡng thờ cúng người có công
Truyện Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê
Lợi, hăm ba giỗ mụ hàng dầu kể rằng thời
kỳ đầu khởi nghĩa, khi bị giặc vây hãm,
tình thế rất nguy khốn, Lê Lai đã tự nguyện
đóng giả Lê Lợi ra cho giặc bắt, ông bị
giặc giết vào ngày 21. Sau khi thành công,
Lê Lợi sai lập đền thờ ông và ra lệnh sau
này phải cúng Lê Lai trước mình, mười
năm sau đó, Lê Lợi mất vào ngày 22. Lê
Lợi còn dặn sau cúng ông là giỗ bà hàng
dầu từng giúp nghĩa quân những ngày đầu
khởi nghĩa. Đây là tín ngưỡng thể hiện đạo
lí uống nước nhớ nguồn của người Việt, nó
là biểu hiện của đạo hiếu, đạo thờ cúng tổ
tiên ông bà, những người nuôi dưỡng chở
che cho mình khôn lớn, thành công. [10]
2.2.1.2. Tín ngưỡng tôn giáo
a. Tín ngưỡng Phật giáo
Truyện Man Nương, Sự tích Man Nương
kể rằng vào cuối đời Hán Minh Đế, có cô
gái mồ côi theo học đạo Phật nhưng có tật
nói lắp. Một bữa cô ngủ quên ở cửa, sư Già
la bước qua không ngờ thụ thai, cả hai bỏ
chùa đi nơi khác. Cô đến một ngôi chùa ở
ngã ba sông thì ở lại đó và sinh con, đứa
con được trao cho Già la. Ông đặt đứa bé
vào hốc sâu trong cành cây đa cổ thụ, sau
cây đỗ xuống, dân định bổ củi nhưng khi
xẻ ra thì chỗ đặt đứa con nay thành một
tảng đá rất rắn, rìu xẻ đều bị mẻ. Người ta
ném hòn đá xuống sông, tia sáng chói lên
và bọn thợ đều chết cả. Dân mời Man
Nương bái lễ rồi thuê thợ lặn đem vào chùa
thờ thành pháp danh: Pháp Vân, Pháp Vũ,
Pháp Lôi, Pháp Điện. Còn Man Nương
thành Phật Mẫu. Truyện này thể hiện sự
giao thoa giữa tín ngưỡng Phật giáo và tín
ngưỡng thờ nhiên thần của cư dân bản địa.
Kết quả của tín ngưỡng Phật giáo Việt
Nam là tứ pháp, sản phẩm mộ đạo của một
cô gái Việt với Phật giáo qua vị sư Già la
[6,tr.30-31].
Truyện Sự tích nội đạo tràng kể Trần
Lộc, làm nghề phù thủy, một lần được một
tiên ông truyền cho phép thuật “thượng
không”, từ đấy nổi tiếng về nghề bùa phép.
Bấy giờ vua Thần Tông mắc bệnh lạ, tổ sư
cử đồ đệ là Pháp bộ Kim Cương đi thay,
đấm vào ngực và niệm chú, hơn một tháng
sau khỏi bệnh. Nhưng vì thế mang Kim
Cương ngạo ngược, việc đến tai triều đình,
hỏi đến Tổ Sư, ông trách mắng Kim Cương
rồi bao bài quyết trao cho đều thu lại hết,
chỉ còn những bài quyết thỉnh Phật và trừ
tà còn lưu hành ở đời. Truyện này pha lẫn
Phật giáo và Đạo giáo, gọi là Phật Lão.
Đây là phái Mật Tông với cầu đồng, pháp
thuật, yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh... Phái
này gần với tín ngưỡng dân gian.
Truyện chùa Bối Khê kể rằng Hành
thiện Bồ tát Chân nhân, quê ở xã Bối Khê,
huyện Thanh Oai, tu ở núi Tiên Lữ, huyện