Đại học xây dựng miền Trung thực hiện phương châm “Học đi đôi với hành” nhằm nâng cao chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực hội nhập

Tóm tắt: Ngày 31 tháng 12 năm 2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ chính thức thành lập đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước thành viên, trong đó có Việt Nam. Một trong những yếu tố quan trọng, quyết định sự thành bại của quá trình hội nhập là chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực quí giá nhất của các tổ chức, đơn vị là yếu tố quyết định sự thành bại của họ trong tương lai. Bởi vậy, các tổ chức và đơn vị luôn tìm cách để duy trì và phát triển nguồn nhân lực của mình. Một trong các biện pháp hữu hiệu nhất nhằm thực hiện mục tiêu trên là đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đại học xây dựng miền Trung thực hiện phương châm “Học đi đôi với hành” nhằm nâng cao chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 8 ĐẠI HỌC XÂY DỰNG MIỀN TRUNG THỰC HIỆN PHƢƠNG CHÂM “HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH” NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO PHÁT TRIỄN NGUỒN NHÂN LỰC HỘI NHẬP KS. Lê Đức Gia Phó Trưởng khoa Đào tạo nghề, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Ngày 31 tháng 12 năm 2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ chính thức thành lập đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước thành viên, trong đó có Việt Nam. Một trong những yếu tố quan trọng, quyết định sự thành bại của quá trình hội nhập là chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực quí giá nhất của các tổ chức, đơn vị là yếu tố quyết định sự thành bại của họ trong tương lai. Bởi vậy, các tổ chức và đơn vị luôn tìm cách để duy trì và phát triển nguồn nhân lực của mình. Một trong các biện pháp hữu hiệu nhất nhằm thực hiện mục tiêu trên là đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Từ khóa: Học đi đôi với hành, nâng cao chất đào tạo, nguồn nhân lực, hội nhập. 1. Một số khái niệm về nguồn nhân lực Nguồn nhân lực hiện nay không còn xa lạ với nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, cho đến nay quan niệm về vấn đề này hầu như chưa thống nhất. Tuỳ theo mục tiêu cụ thể mà người ta có những nhận thức khác nhau về nguồn nhân lực. Có thể nêu lên một số quan niệm như sau: Nguồn nhân lực là toàn bộ khả năng về sức lực, trí tuệ của mọi cá nhân trong tổ chức, bất kể vai trò của họ là gì. Theo ý kiến này, nói đến nguồn nhân lực là nói đến sức óc, sức bắp thịt, sức thần kinh và nhìn nhận các khả năng này ở trạng thái tĩnh. Có ý kiến cho rằng, nguồn nhân lực là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Khác với quan niệm trên, ở đây đã xem xét vấn đề ở trạng thái động. Lại có quan niệm, khi đề cập đến vấn đề này chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh trình độ chuyên môn và kỹ năng của nguồn nhân lực, ít đề cập một cách đầy đủ và rõ ràng đến những đặc trưng khác như thể lực, yếu tố tâm lý – tinh thần... Theo giáo sư Phạm Minh Hạc, nguồn nhân lực cần phải hiểu là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc nào đó. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu: Nguồn nhân lực là tổng thể những tiềm năng của con người (trước hết và cơ bản nhất là tiềm năng lao động), gồm: thể lực, trí lực, nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một tổ chức hoặc một cơ cấu kinh tế - xã hội nhất định. Đào tạo nguồn nhân lực là một loại hoạt động có tổ chức, được thực hiện trong một thời gian nhất định và nhằm đem đến sự thay đổi nhân cách và nâng cao năng lực của con người. Là quá trình học tập để chuẩn bị con người cho tương lai, để họ có thể Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 9 chuyển tới công việc mới trong thời gian thích hợp. Nguồn nhân lực là quá trình học tập nhằm mở ra cho cá nhân một công việc mới dựa trên những định hướng tương lai của tổ chức. Theo quan niệm này, khi nói đến đào tạo nguồn nhân lực là nói đến việc trang bị cho người lao động: kiến thức phổ thông, kiến thức chuyên nghiệp, kiến thức quản lý... Từ đó cho thấy, Đào tạo: Là hoạt động làm cho con người trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định. Là quá trình học tập để làm cho người lao động có thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ có hiệu quả hơn trong công tác của họ. Đào tạo nguồn nhân lực là cần thiết cho sự thành công của tổ chức và sự phát triển chức năng của con người. Việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ được thực hiện bên trong một tổ chức, mà còn bao gồm một loạt những hoạt động khác được thực hiện từ bên ngoài, như: học việc, học nghề và hành nghề. Kết quả của quá trình đào tạo nguồn nhân lực sẽ nâng cao chất lượng, phát triển nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực Có người cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động nhằm chuẩn bị cho nhân viên theo kịp với cơ cấu tổ chức khi nó thay đổi và phát triển. Phát triển nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhiệm được một công việc nhất định. Phát triển nguồn nhân lực là truyền đạt các kiến thức, thay đổi quan điểm, nâng cao kỹ năng thực hành cho người lao động trong tương lai... Phát triển nguồn nhân lực là quá trình biến đổi, hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao. Là quá trình học tập, nhằm mở ra cho cá nhân những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai cho tổ chức. Trong khi đó, quan niệm của Tổ chức giáo dục - khoa học và văn hoá của LHQ (UNESCO): Phát triển nguồn nhân lực được đặc trưng bởi toàn bộ sự lành nghề của dân cư, trong mối quan hệ phát triển của đất nước. Tổ chức phát triển công nghiệp LHQ (UNIDO): Phát triển con người một cách hệ thống vừa là mục tiêu vừa là đối tượng của sự phát triển của một quốc gia. Nó bao gồm mọi khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Như nâng cao khả năng cá nhân, tăng năng lực sản xuất và khả năng sáng tạo, bồi dưỡng chức năng chỉ đạo thông qua giáo dục, đào tạo nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Tổ chức Lương thực và nông nghiệp LHQ (FAO): Sự phát triển nguồn nhân lực như một quá trình mở rộng các khả năng tham gia hiệu quả vào phát triển nông thôn, bao gồm cả tăng năng lực sản xuất. Quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Phát triển nguồn nhân lực, bao hàm một phạm vi rộng lớn hơn chứ không chỉ có sự chiếm lĩnh ngành nghề, hoặc ngay cả việc đào tạo nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở nhận thức rằng, con người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như những thoả mãn về nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung nâng cao kiến thức trong quá trình sống, làm việc, nhằm đáp ứng kỳ vọng của con người. Từ những vấn đề trên, phát triển nguồn nhân lực là Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 10 quá trình gia tăng, biến đổi đáng kể về chất lượng của nguồn nhân lực và sự biến đổi này được biểu hiện ở việc nâng cao năng lực và động cơ của người lao động. Như vậy, thực chất của việc phát triển nguồn nhân lực là tìm cách nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực đó. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là quá trình tạo lập và phát triển năng lực toàn diện của con người vì sự tiến bộ kinh tế, xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người; nó là kết quả tổng hợp của cả 03 bộ phận cấu thành gồm: Giáo dục, Đào tạo và Phát triển. Ở đây, giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập, để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề nghiệp, hoặc chuyển sang nghề mới, thích hợp hơn trong tương lai. Cần chú ý rằng, năng lực của người lao động ở đây được thể hiện ở kiến thức, kỹ năng và hành vi thái độ của người lao động đó, và ứng với mỗi mục tiêu công việc, cần một loại năng lực nhất định. Năng lực người lao động, Năng lực là sự tổng hòa của các yếu tố kiến thức, kỹ năng, hành vi và thái độ góp phần tạo ra tính hiệu quả trong công việc của mỗi người. Kiến thức là những điều hiểu biết có được hoặc do từng trải, hoặc nhờ học tập. Nó gồm 3 yếu tố: kiến thức tổng hợp (những hiểu biết chung về thế giới), kiến thức chuyên ngành (về một vài lĩnh vực đặc trưng như kế toán, tài chính, kỹ thuật...) và kiến thức đặc thù (những kiến thức đặc trưng mà người lao động trực tiếp tham gia hoặc được đào tạo). Kỹ năng của người lao động là sự thành thạo, tinh thông về các thao tác, động tác, nghiệp vụ trong quá trình hoàn thành một công việc cụ thể nào đó. Những kỹ năng sẽ giúp cho người công nhân đó hoàn thành tốt công việc của mình, quy định tính hiệu quả của công việc. Thái độ của người lao động cho thấy cách nhìn nhận của người đó về vai trò, trách nhiệm, mức độ nhiệt tình đối với các công việc, điều này sẽ được thể hiện qua các hành vi của họ. Một người có kỹ năng tốt nhưng thái độ không đúng thì hiệu quả đóng góp sẽ không cao. Như vậy, nói đến năng lực của người lao động là nói đến cả 3 yếu tố: Thái độ, kỹ năng và kiến thức. Ở đây, thái độ là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của người lao động với công việc cũng như với tổ chức. Một người có thể có kiến thức sâu rộng, kỹ năng chuyên nghiệp nhưng thái độ bàng quan với cuộc sống, vô trách nhiệm với xã hội thì chưa chắc đã làm tốt công việc. Động cơ thúc đẩy người lao động Con người sống và làm việc có những nhu cầu khác nhau. Đó là nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, nhu cầu xã hội và cũng có thể là nhu cầu hoạt động, làm việc. Đây là đòi hỏi khách quan của mọi con người để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của họ trong những điều kiện nhất định. Động cơ là cái có tác dụng chi phối, thúc đẩy người ta suy nghĩ và hành động. Đó chính là sức mạnh bên trong thúc đẩy con người hoạt động, chỉ đạo hành vi và làm gia tăng lòng quyết tâm bền bỉ giành lấy mục tiêu. Như vậy, động cơ làm việc là sự sẵn sàng dồn tâm trí, sức lực theo đuổi mục tiêu của tổ chức để đáp ứng, thỏa mãn những nhu cầu cá nhân. Những động cơ làm việc cá nhân phục vụ mục tiêu chung, có lợi cho tổ chức, cho xã hội, đem lại những điều tốt đẹp cho mọi người được xem là Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 11 những động cơ trong sáng, tốt đẹp. Trong các cơ quan vốn đã có một đội ngũ lao động thì việc thiết kế công việc, bố trí đúng người, đúng việc là đòi hỏi quan trọng hàng đầu đối với các nhà quản lý. 2. Nguồn lao động dồi dào Dân số việt nam hiện nay đạt ngưỡng dưới 93 triệu người (tính đến tháng 12 năm 2015 Theo chương trình mục tiêu dân số được Thủ tướng phê duyệt, mức sinh giai đoạn 2012-2015). Với lượng dân số này, hiện nay Việt Nam đang đứng thứ 14 trên thế giới về dân số và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Về lực lượng lao động, cả nước có nguồn cung Lao động 54,43 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động, chiếm 76,11% tổng dân số. (theo bản tin cập nhật thị trường Lao động Việt Nam số 6 Quý 2 ngày 30 tháng 10 năm 2015). Tuy nhiên, số người trong độ tuổi lao động đông không có nghĩa là thị trường lao động Việt Nam đáp ứng đủ nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp. Bởi số lao động có tay nghề, có chất lượng của nước ta đang còn rất hạn chế. Trong tổng số 54,43 triệu lao động chỉ có gần 10,77 triệu người đã được đào tạo, chiếm 20,77% tổng lực lượng lao động (gồm 11,73% có tình độ giáo dục nghề nghiệp, 8,33% có trình độ từ đại học trở lên). Trong số 10,77 triệu lực lượng lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ từ sơ cấp và tương đương trở lên, trình độ đại học trở lên có 4,47 triệu người (chiếm 41,51%); trình độ cao đẳng có 1,46 triệu người (14,99%); trình độ trung cấp có 2,92 triệu người (27,11%); trình độ sơ cấp có 1,77 triệu người (16,39%). Cơ cấu trình độ đại học trở lên/cao đẳng/trung cấp/ sơ cấp là 1: 0,35: 0,65: 0,4 cảnh báo sự mất cân đối về cơ cấu lao động qua đào tạo giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, nguy cơ này sẽ gia tăng khi Việt Nam hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN tháng 12 năm 2015. Nguồn lao động dồi dào, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng, nhưng các doanh nghiệp vẫn kêu thiếu lao động. Nguyên nhân là do lao động Việt Nam chỉ mới đáp ứng được nhu cầu về số lượng, chứ chưa đáp ứng được nhu cầu về chất lượng. Điều này không chỉ gây khó khăn cho các doanh nghiệp và còn khiến cho người lao động tự làm mất cơ hội việc làm cho bản thân. 3. Doanh nghiệp vẫn khát nhân lực Theo số liệu của Viện nghiên cứu phát triển nhân lực TP. HCM cho biết: hiện nay, cung lao động tại Việt Nam rất dồi dào và lớn hơn cầu về lao động. Tuy nhiên, phần lớn lượng cung lao động này là lao động phổ thông, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo cao và chất lượng lao động không đồng đều giữa các vùng, miền. Cụ thể là gần 77% người lao động trong độ tuổi lao động chưa được đào tạo nghề, hoặc được đào tạo thì còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp và chất lượng lao động ở khu vực thành phố cao hơn so với ở khu vực nông thôn. Về mặt cầu, nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay phần lớn được phân bổ trong khu vực nông nghiệp, nơi kỹ năng, tay nghề và trình độ của người lao động thường không cần ở mức độ cao. Lực lượng lao Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 12 động đang làm việc trong khu vực công nghiệp chỉ chiếm 20% và đối với khu vực dịch vụ chỉ chiếm khoảng 26%. Theo Bộ LĐ-TB&XH thì hiện tại, chất lượng việc làm vẫn rất thấp. Cụ thể: việc làm giản đơn, không cần kỹ năng chiếm gần 40% tổng việc làm của cả nước. Ở khu vực thành thị tỷ lệ này là 18,1% nhưng khu vực nông thôn chiếm gần 50% tổng việc làm. Trong khi đó, so với những năm trước đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, nhu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao của các ngành dịch vụ và công nghiệp tăng rất nhanh. Đến các KCX-KCN, khi tuyển công nhân cho các ngành may mặc, điện tử cũng yêu tiên người có kinh nghiệm, tay nghề, lao động đã qua đào tạo. Bên cạnh các Doanh nghiệp Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta cũng đang rất khát nguồn lao động có tay nghề, chất lượng cao. Trong khi đó, tỷ lệ lao động có chất lượng của chúng ta lại quá ít, không đủ để đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc quan tâm đào tạo nguồn nhân lực là vấn đề vô cùng quan trọng hiện nay. Như vậy, có thể thấy rằng chất lượng nguồn lao động của nước ta hiện nay đang còn rất thấp, trong khi nhu cầu sử dụng lao động có tay nghề, chất lượng cao của các DN lại liên tục tăng. Điều này dẫn đến nguồn lao động của chúng ta dồi dào, nhu cầu việc làm lớn, nhưng các doanh nghiệp vẫn rơi vào tình trạng thiếu lao động. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thất nghiệp ngày càng gia tăng của nước ta hiện nay. Để khác phục tình trạng này, Nhà nước cùng các cơ quan ban ngành đã đưa ra các giải pháp như: Tích cực tổ chức các trường đào tạo ngắn hạn cho người lao động nhằm trau dồi, nâng cao kiến thức thực tế và kỹ năng nghề nghiệp. Đồng thời cần quan tâm tới việc chăm sóc cuộc sống của người lao động, tuyên truyền, khuyến khích, động viên người lao động có ý thức trong việc học tập, nâng cao kiến thức, tay nghề cho bản thân. Đây là vấn đề vừa giúp người lao động tìm được nhiều cơ hội việc làm cho chính mình, và dần khắc phục được tình trạng yếu kém trong chất lượng nguồn lao động của nước ta hiện nay. 4. Càng học cao, càng thất nghiệp: Thông tin Viện Khoa học Lao động và Xã hội công bố Bản tin cập nhật thị Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 13 trường lao động quý 2/2015 ngày 30/10/2015 lại tiếp tục gây sửng sốt với nhiều người bởi tỷ lệ thất nghiệp chung đã giảm nhưng số lượng người có trình độ đại học, sau đại học thất nghiệp tăng cao là hơn 199.400 người (tăng 22.000 người so với quý 1/2015. Theo số liệu thống kê lao động đã qua đào tạo cho thấy ngoại trừ nhóm trình độ cao đẳng có tỷ lệ thất nghiệp giảm so với quý 1/2015 (từ 7,13% xuống còn 6,56%), thì tỷ lệ thất nghiệp của các nhóm trình độ chuyên môn kỹ thuật khác đều tăng. Cụ thể: Nhóm có trình độ đại học trở lên tăng từ 3,92% lên 4,6%; trình độ trung cấp tăng từ 3,66% lên 4,4% và trình độ sơ cấp tăng từ 2,05% lên 2,71%. Bà Nguyễn Thị Lan Hương, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội cho rằng, tỷ lệ lao động trình độ đại học thất nghiệp tăng là do quy mô tuyển sinh đại học quá cao so với nhu cầu lao động. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến số lao động có chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là trình độ đại học gia tăng. * 3 Ba nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp: Theo GS Đào Trọng Thi – Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho rằng có 3 lý do: Thứ nhất, quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường; Thứ hai, Chất lượng nguồn nhân lực đào tạo ra chưa đáp được nhu cầu, thực tế nhiều doanh nghiệp cần tuyển người nhưng không tuyển được. Thứ ba, quy hoạch nhân lực đào tạo không phải chỉ là số lượng mà còn phải đảm bảo hợp lý về cơ cấu vùng miền, ngành nghề, trình độ, chất lượng. Có thể thấy, lao động tốt nghiệp đại học thất nghiệp nhiều nhưng tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, trong khi nhiều sâu vùng xa thiếu người có trình độ lại không tuyển được. ―Nếu ta đào tạo theo đúng quy hoạch thì chắc chắn sẽ không xảy ra tình trạng đào tạo thừa nguồn nhân lực, dẫn tới tình trạng sinh viên tót nghiệp cao đẳng, đại học thất nghiệp nhiều đến vậy‖. Theo GS Đào Trọng Thi, vai trò quan trọng nhất của Nhà nước trong định hướng phát triển giáo dục nói chung, các trường đại học, cao đẳng nói riêng là quy hoạch nguồn nhân lực cho đúng, quản lý các trường thực hiện đúng theo quy hoạch. Trong đó, Nhà nước phải quy hoạch nguồn nhân lực dựa trên cơ sở dự báo đúng thị trường lao động. Dự báo này phải có tính dài hạn, ít nhất 5-10 năm. Quản lý hoạt động của các trường theo đúng quy hoạch cũng quan trọng không kém, nghĩa là phải quản lý làm sao để các trường không thể cứ thấy ngành nghề nào đang ―hot‖ là lao vào mở ngành, mở lớp dẫn đến đào tạo thừa, trong khi những ngành nghề khác lại thiếu. Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 14 Sinh viên thực hành Môn trắc địa Sinh viên Cầu đường TH xây hố ga thoát nước * Bộ GD-ĐT ngừng đào nhiều ngành học: Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ GD-ĐT, Năm học 2014-2015 quy mô đào tạo đã giữ tương đối ổn định, cả nước có 219 trường đại học, 217 trường cao đẳng (không tính các trường thuộc khối an ninh, quốc phòng, quốc tế), trong đó có 60 trường đại học và 28 trường cao đẳng ngoài công lập; Quy mô sinh viên (SV) đại học 1.824.328, SV cao đẳng là 539.614, trong đó, SV chính quy đại học là 1.348.937, SV chính quy cao đẳng là 519.722; SV vừa làm vừa học đại học là 339.301, SV vừa làm vừa học cao đẳng là 19.892; quy mô đào tạo trình độ thạc sĩ là 92.349 học viên cao học. Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga cho biết, hiện nay Bộ đang dự thảo thông tư thay thế Thông tư 57 về xác định chỉ tiêu theo hướng giữ ổn định quy mô đào tạo đại học, tập trung nâng cao chất lượng và cam kết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp. Cụ thể, kiên quyết không cấp phép mở các ngành không đủ điều kiện theo quy định, đồng thời tạm dừng mở một số ngành đã có nguy cơ dư thừa và thực hiện cảnh báo xã hội để giảm quy mô đào tạo các ngành này như Nhóm ngành kinh tế, kế toán, quản trị kinh doanh, tài chính ngân hàng trình độ đại học ở khu vực Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. 5. Làm thế nào để nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực Trong những năm qua lãnh đạo Nhà trường đã ý thức được rằng để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phải dựa vào ba trụ cột chính, đó là: Lực lượng giảng viên; cơ sở vật chất và người học. Cơ sở vật chất: Tập trung cải tạo, mở rộng cơ sỏ A; nhằm tăng thêm diện tích phòng thí nghiệm; xưởng thực hành; phòng học chuyên ngành, các phòng, khoa được kết nối internet, mạng wifi được phủ sóng toàn trường xây dựng mới cơ B với đầy đủ chức năng từ nhà Hiệu bộ, lớp học lý thuyết, nhà thi đấu đa năng tiếp tục mua sắm máy móc thiết bị thí nghiệm, tài liệu, sách, giáo trình phục học tập cho học sinh – sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu khoa học của giảng viên. Lực lượng giảng viên: Tiếp tục tuyển giảng viên có trình độ cao như thạc sĩ, tiến sĩ có kinh nghiệm. Cử nhân; kỹ sư tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc tại các trường tốp trên. Để nâng cao trình độ giảng viên h
Tài liệu liên quan