Bài viết đề cập đến việc áp dụng phương
pháp Peer Learning cho kĩ năng đọc hiểu tiếng Nhật
(còn gọi là Peer Reading) thông qua việc tiến hành dạy
thử nghiệm song song 2 giờ học đọc hiểu: giờ học áp
dụng Peer Reading (+P) và giờ học không áp dụng
phương pháp này (-P) với đối tượng nghiên cứu là sinh
viên năm thứ 2 Khoa tiếng Nhật, Trường Đại học Hà
Nôi trình độ sơ trung cấp. Qua đó tiến hành khảo sát,
đánh giá những hiệu quả của phương pháp nêu trên;
đồng thời chỉ ra những yếu tố khác biệt cũng như
những hạn chế trong quá trình giảng dạy đối với sinh
viên Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 463 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả phương pháp Peer Reading trong giảng dạy đọc hiểu tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiu ban 1: Đào to chuyên ng 
224 
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP PEER READING 
TRONG GIẢNG DẠY ĐỌC HIỂU TẠI VIỆT NAM 
Lê Hà Phng 
Trng Đi hc Hà Ni
Tóm t
t: Bài viết đề cập đến việc áp dụng phương 
pháp Peer Learning cho kĩ năng đọc hiểu tiếng Nhật 
(còn gọi là Peer Reading) thông qua việc tiến hành dạy 
thử nghiệm song song 2 giờ học đọc hiểu: giờ học áp 
dụng Peer Reading (+P) và giờ học không áp dụng 
phương pháp này (-P) với đối tượng nghiên cứu là sinh 
viên năm thứ 2 Khoa tiếng Nhật, Trường Đại học Hà 
Nôi trình độ sơ trung cấp. Qua đó tiến hành khảo sát, 
đánh giá những hiệu quả của phương pháp nêu trên; 
đồng thời chỉ ra những yếu tố khác biệt cũng như 
những hạn chế trong quá trình giảng dạy đối với sinh 
viên Việt Nam. 
Abstract: In recent years, research related to the 
team-based methods of teaching and learning (known 
as Peer Learning) in Japanese teaching methods has 
received much attention. In Vietnam, Peer Learning, 
which has been studied and experimentally taught 
since 2009, has proved to be effective for acquiring the 
skills of speaking, writing, and interpreting. However, 
the research on Peer Learning applying to the skills of 
listening or reading are rare. This article is about the 
application of Peer Learning for Japanese reading skill 
(known as Peer Reading). According to Tateoka 
(2000:27), Peer Reading is the term used to refer to the 
comprehension activity in which there is interaction and 
mutual support among learners to understand reading 
documents. The effectiveness of Peer Reading in 
recent published studies is as follows: Promoting the 
understanding of reading documents; creating a lively 
atmosphere for the classroom; enhancing the 
relationship among learners. Through teaching 
experimentally 2 classes of reading comprehension in 
parallel including one class applying Peer Learning 
(+P) and the other not adopting Peer Learning (-P) with 
the participating sophomore students who are pre-
intermediate level Japanese language learners in the 
Japanese Department at Hanoi University, this article 
examines the above-mentioned effectiveness of Peer 
Reading as well as points out the different elements in 
teaching processes applying to Vietnamese learners 
and the drawbacks when adopting this method. 
1. Đặt vấn đề 
Đọc hiểu vốn được đánh giá là một trong 
những kĩ năng khó đối với người học tiếng Nhật. 
Theo kết quả điều tra1 liên quan đến giảng dạy đọc 
hiểu tiếng Nhật tại 2 trường đại học tại Hà Nội với 
gần 200 sinh viên thì có đến 69,7% sinh viên trả 
lời gặp khó khăn trong việc học đọc hiểu tiếng 
Nhật. Ngoài ra, hơn 50% trong số đó đã đưa ra 
nhận xét về giờ học đọc hiểu rất thụ động và nhàm 
chán. Điều này khiến chúng tôi nghĩ rằng một 
trong những nguyên nhân khiến giờ học đọc hiểu 
nhàm chán là do cách thức giảng dạy của giáo viên 
chỉ truyền đạt kiến thức một chiều cho sinh viên. 
Theo dòng thời gian, quan điểm giáo dục ngôn 
ngữ trong giảng dạy tiếng Nhật đã có nhiều thay 
đổi. Đầu những năm 90, giảng dạy tiếng Nhật đã 
chuyển từ quan điểm giáo viên là người đóng vai 
trò chính truyền đạt chủ yếu kiến thức ngôn ngữ 
cho sinh viên sang quan điểm sinh viên cùng nhau 
hỗ trợ để giải quyết bài tập và nâng cao năng lực 
giao tiếp. Phương pháp Peer Reading đã ra đời 
trong bối cảnh. 
Peer Reading (gọi tắt là PR) nằm trong hệ 
thống phương pháp Peer Learning (Phương pháp 
học theo nhóm), là khái niệm dùng để chỉ hoạt 
động đọc hiểu mà ở đó có sự tương tác và hỗ trợ 
lẫn nhau từ phía người học để lý giải văn bản 
(Tateoka, 2007:27). Thông qua hoạt động đọc để 
cùng nhau giải quyết các câu hỏi, PR không chỉ 
hiệu quả trong cách thức làm việc theo nhóm mà 
còn nâng cao kĩ năng đọc cho từng cá nhân. Chính 
vì vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra hiệu quả 
của phương pháp này không chỉ giúp nâng cao 
năng lực đọc hiểu mà còn tăng hứng thú cho 
người học, tạo không khí sôi nổi trong lớp học 
(Tateoka, 2005:155-164). 
Tuy nhiên, những nghiên cứu thực tiễn về 
phương pháp đọc theo nhóm này mới chỉ dừng lại 
trong các nghiên cứu của Tateoka (2000, 2005), 
1
 Điều tra được thực hiện đối với 169 sinh viên Khoa Tiếng 
Nhật trường ĐHHN và 37 SV tiếng Nhật trường ĐHNN 
ĐHQGHN (từ tháng 8 đến tháng12 năm 2012). 
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 
225 
Beuckmann (2011). Hơn nữa, trong môi trường 
đào tạo tiếng Nhật như một ngoại ngữ (Japanese 
Foreign Language) giống như ở Việt Nam thì mới 
chỉ có nghiên cứu của Eki (2008) lấy đối tượng là 
sinh viên Trung Quốc. Tại Việt Nam, những 
nghiên cứu thực tiễn liên quan đến Peer Learning 
mới có nghiên cứu của Anh (2009) với “Hoạt 
động peer trong giờ học thuyết trình không chuẩn 
bị trước” và Lương Hải Yến (2010) với “Hoạt 
động peer trong giờ học dịch thuật”. Ngoài ra, các 
nghiên cứu về PR đối với kỹ năng đọc hiểu, theo 
hiểu biết của tác giả mới có nghiên cứu của Vũ 
Thị Phương Châm (2013). Tuy nhiên, nghiên cứu 
này mới chỉ dừng lại ở mức độ áp dụng dạy thử 
nghiệm và đánh giá phản ứng của sinh viên dựa 
trên quan điểm cá nhân giáo viên chứ chưa đưa ra 
những phân tích về chất như sự thay đổi cụ thể 
trong phát ngôn của giáo viên và sinh viên trong 
giờ học ra sao, năng lực sinh viên sau khi học 
phương pháp này thế nào Bài viết này sẽ tiến 
hành nghiên cứu thử nghiệm phương pháp PR lấy 
đối tượng là sinh viên học tiếng Nhật để kiểm 
chứng hiệu quả của phương pháp này trong giờ 
học đọc hiểu. Các vấn đề nghiên cứu là: 
(1) So sánh lượng phát ngôn của giáo viên và 
sinh viên trong 2 giờ học +P và –P. 
(2) Kiểm chứng sự khác biệt năng lực tiếng 
Nhật của sinh viên giữa 2 lớp (+P và –P) qua 2 bài 
kiểm tra đánh giá năng lực Pre-test và Post-test. 
(3) Điều tra đánh giá của sinh viên về giờ học PR. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu đã trình 
bày ở trên, chúng tôi đã tiến hành dạy thử nghiệm 
song song. Đối tượng nghiên cứu là 28 sinh viên 
năm thứ 2 khoa Tiếng Nhật, Trường Đại học Hà 
Nội, trình độ tiếng Nhật sơ trung cấp. Chúng tôi 
chia đối tượng học làm 2 nhóm (2 lớp) khác nhau, 
cùng một trình độ, cùng một tài liệu nhưng 1 
nhóm học theo phương pháp PR (gọi tắt là +P), 
còn 1 nhóm học theo cách hướng dẫn giảng dạy 
thông thường (-P). Thời gian dạy thử nghiệm đối 
với mỗi lớp là 1 buổi/tuần (1 buổi = 90 phút) kéo 
dài trong 1 tháng. 
Lớp học theo phương pháp thông thường, giáo 
viên sẽ dạy theo hướng dẫn có ghi sẵn trong phần 
đầu giáo trình (-P). Trình tự giảng dạy theo 
phương pháp thông thường là Giới thiệu từ vựng, 
chữ Hán, ngữ pháp, đọc bài khóa và làm bài tập 
trả lời câu hỏi liên quan đến nội dung bài khóa. 
Đối với lớp học +P, chúng tôi tổ chức 1 buổi (90 
phút) để giới thiệu cho sinh viên các kiến thức liên 
quan đến PR cũng như cách thức tiến hành giờ 
học này ra sao, sau đó mới tiến hành giờ học thử 
nghiệm(+P, 4 buổi). Trong giờ học +P này, chúng 
tôi chia ra thành 2 buổi học Jigsaw Reading2 và 2 
buổi học Process Reading3. Toàn bộ giờ học thử 
nghiệm được ghi hình bằng 1 máy camera và ghi 
âm bằng 4 máy IC recorder. Tài liệu được sử dụng 
chủ yếu là các câu chuyện có nhiều tình huống 
khó dự đoán và kết thúc bất ngờ. 
Ngoài ra, để so sánh sự thay đổi trong năng lực 
đọc hiểu, trước và sau giờ học thử nghiệm chúng 
tôi tiến hành cho sinh viên làm bài kiểm tra Pre-
test và Post-test. Nội dung bài kiểm tra không sử 
dụng dạng câu hỏi liên quan đến từ vựng, ngữ 
pháp mà tập trung vào các câu hỏi liên quan đến 
khả năng lý giải như dự đoán về cách triển khai 
tình huống trong câu chuyện hay tóm lại chủ đề 
của bài là gì Số lượng câu hỏi trong 2 bài kiểm 
tra Pre-test và Post-test là 8 câu, nội dung khác 
nhau nhưng cùng một trình độ. Nội dung các bài 
kiểm tra do tác giả soạn và đã được Phó giáo sư 
Matsuda Makiko, Trường Đại học Kanazawa 
thẩm định (Lê Hà Phương, Matsuda 2013). Số 
lượng và mức độ từ vựng, chữ Hán, ngữ pháp đã 
được kiểm định qua phần mềm hỗ trợ giảng dạy 
tiếng Nhật Reading tutor 4 và phần mềm kiểm 
chứng mức độ đọc hiểu tiếng Nhật Readability5. 
Đối tượng phân tích trong bài viết này là giờ 
học thử nghiệm đầu tiên(+P1 và –P1) Từ dữ liệu 
ghi âm và ghi hình, chúng tôi tiến hành chữ hóa 
từng phát ngôn trong lớp học và sử dụng thủ pháp 
phân tích Protocol6. Dưới đây là ví dụ về một đoạn 
hội thoại được phân tích theo hình thức Protocol 
(Bảng 1) và hình ảnh chung của lớp học PR. 
2
 Jigsaw Reading: Chia bài đọc thành nhiều đoạn nhỏ, sắp 
xếp không theo thứ tự đúng, riêng phần kết của câu chuyện 
giáo viên sẽ phát sau cùng. Các thành viên trong 1 nhóm sẽ 
đọc và ghép các đoạn theo thứ tự đúng và dự đoán kết thúc 
của câu chuyện. 
3
 Process Reading: Các thành viên trong nhóm cũng nhau 
đọc 1 bài khóa và kiểm tra cho nhau các lỗi sai trong quá 
trình đọc. 
4
 Reading tutor (         	 
 ): 
5
 Readability (
 ): 
6
 Protocol: Là phương pháp phân tích để đánh giá quá trình 
nhận thức của người đọc thông qua dữ liệu phát ngôn liên 
quan đến việc lí giải, cảm nhận văn bản. 
Tiu ban 1: Đào to chuyên ng 
226 
Bảng 1. Ví dụ về Protocol (Giờ +P1, nhóm 1, chủ đề “Tội nặng”) 
No SV Phát ngôn gốc Dịch sang Tiếng Nhật 
102 S3 q
4·rChủ ngữ là //đúng không?// 
 q
4·r%qrI
· 
103 S2 //Dú// i 
104 S4 Ờ ờ Dú HHqr 
105 S3 
q
4·r  là cái cổ q
4·r %I 
106 S2 
, //à đúng rồi// "- 
107 S3 //Chị đoán thế// (hhh) 
 -Q# 
108 S2 Không, em cũng nghĩ thế vì nếu không viết bằng 
 thế này thì..c là cái cổ đấy 
 ¨-IQ=
!/%I 
109 S1 
//// i 
110 S2 // còn có nghĩa là//cái dải nữa mà %Q¿O
 
111 S3 cái dải? 
  
112 S2 cái dải  như kiểu c ở trong cái 0 ý =0cú 
113 i 0'.3'' i 
114 S2 à, đấy là i chứ nhở? "-N%!? 
115 S3 
 là cái ... thắt lưng? % !? 
116 S2 ừ ừ,i i là cái dải HH% 
117 S3  đúng rồi mà  là cái cổ//đại khái 
thế// --%"H 
118 S1 //ứ, em tưởng//  viết bằng #9 chứ ¨$}#9!/c
Ô 
119 S4 mọi khi vẫn viết bằng #9 mà? $}#9!/O· 
120 S3 không, đôi khi viết bằng  để nhấn 
mạnh mà 
 ¨.%!/c&'
"O 
121 S1 thế à? 
 () 
122 S2 nhưng mà không viết chữ Hán thì //không biết 
được!// !Q*+!/¹9 
123 S3 //O// O 
124 S1 tuy nhiên thì đấy là tôi, đấy lại là tôi -N%q
r,-N%
q
rI 
125 S3 
c... 
126 S2 À 
"" 
127 S3 , nghiêm túc là chị hiểu cái này như kiểu là Cậu đã bóp cổ thằng đấy(hhh) 
 =N%
4-6
O# 
128 S1 cái gì?(hhh) 
 -N# 
129 S4 cũng có thể là như thế đấy 
 -QN· 
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 
227 
Hình 1. Hình ảnh không khí lớp học Peer Reading 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chú trọng đến 
việc so sánh phát ngôn và số lần lặp lại phát ngôn 
nên đối với từng phát ngôn chúng tôi ngắt thành 
từng dòng. Những phát ngôn cùng được nói 1 thời 
điểm được đánh dấu bởi kí hiệu // //. Trường hợp 
nếu phát ngôn của 1 người kéo dài hoặc dừng phát 
ngôn quá 3 giây chúng tôi sẽ tính là 1 phát ngôn khác. 
Sau khi kết thúc giờ dạy thử nghiệm, chúng tôi 
tiến hành làm bản điều tra đối với sinh viên học 
lớp PR. 
3. Kết quả và khảo sát 
3.1. So sánh số lượng phát ngôn và số lượng 
câu hỏi 
Tổng số lượng phát ngôn trong từng giờ học 
được tổng kết tại bảng 2. Số lượng (SL) phát ngôn 
của giáo viên (T) trên đơn vị thời gian tính trung 
bình (TB) 1 phút tại giờ học –P là 7,83 lần, giờ 
học +P là 6,09 lần và không có sự khác biệt nhiều. 
Tuy nhiên, số lượng phát ngôn của sinh viên (S) 
lại có sự khác biệt rất lớn trong giờ học –P là 1,72 
lần, giờ học +P là 30,32 lần. Sau khi tiến hành xử 
lý thống kê (t) chúng tôi thu được tỉ lệ trung bình 
lượng phát ngôn của sinh viên đạt mức 0,1% và 
kết quả cho thấy có sự chênh lệch. 
Bảng 2. Lượng phát ngôn trong 2 giờ học +P và –P 
Đối tượng -P(Thời lượng 61’33’’) +P(Thời lượng 90’52’’) 
SL phát ngôn TB phát ngôn/phút SL phát ngôn TB phát ngôn/phút 
T 474 7.83 553 6.09 
S 104 1.72 2755 30.32** 
Tổng cộng 578 9.55 3308 36.40 
Đối với số lượng phát ngôn là câu hỏi, chúng 
tôi cũng thu được kết quả chênh lệch. Kết quả 
tổng hợp tại Bảng 3 cho thấy, trên 99% lượng câu 
hỏi trong giờ học –P là của giáo viên đối với sinh 
viên (T-S), còn sinh viên hỏi giáo viên (S-T) là 1 
trường hợp, và không có trường hợp sinh viên đặt 
câu hỏi cho sinh viên (S-S). Điều này hoàn toàn 
ngược lại với kết quả của giờ học +P khi có 230 
trường hợp sinh viên đặt câu hỏi cho nhau chiếm 
hơn 80%. Với kết quả này, chúng ta thấy rằng giờ 
học -P có sự phụ thuộc rất nhiều về phía giáo viên, 
trong khi giờ học +P lại lấy người học làm trung 
tâm cho bài giảng. 
Bảng 3. Lượng câu hỏi trong 2 giờ học +P và -P 
 S - S S - T T - S Tổng 
cộng 
-P 0 1 79 80 
+P 230 3 39 272 
Tuy nhiên, trong những phát ngôn của sinh viên 
không phải tất cả thông tin được đưa ra đều chính 
xác. Nhìn vào nội dung trao đổi của sinh viên như 
trong ví dụ ở bảng 1, chúng tôi phát hiện có 4 
trường hợp sinh viên trao đổi thông tin không chính 
xác. Trong ví dụ này, từ việc nhầm lẫn cách phát 
âm của 2 từ “Kubi” (cái cổ) thành “Obi” (Dải thắt 
đai áo Kimonno) sinh viên đã dự đoán nhầm nghĩa 
của cả cụm từ “Kubi ni suru” (Cho thôi việc) thành 
“Kare no kubi wo shimeta” (Cắt cổ anh ta). 
Tiu ban 1: Đào to chuyên ng 
228 
Ngoài ra, hội thoại giữa các sinh viên hầu hết 
đều được nói bằng tiếng Việt nên phát ngôn trao 
đổi thông tin bằng tiếng Nhật gần như không có. 
Đây là kết quả trái ngược với nghiên cứu của 
Tateoka (2005) và Beuckmann (2011) lấy đối 
tượng nghiên cứu là sinh viên trình độ tiếng Nhật 
cao cấp trong môi trường JSL (Japanese as 
Second Language). Điều này cho thấy trong giai 
đoạn chuyển tiếp từ trình độ sơ cấp lên trung cấp, 
yếu tố dùng tiếng mẹ đẻ để lí giải chính xác văn 
bản đọc là rất cần thiết. 
3.2. Kết quả Pre-Test và Post-Test 
Kết quả Pre-test và Post-test được trình bày 
trong Bảng 4 dưới đây. Nhìn vào kết quả này, 
chúng ta nhận thấy điểm số Post-test của cả 2 giờ 
học +P và –P đều cao hơn so với điểm số Pre-test. 
Tuy nhiên, khi đưa vào xử lý thống kê lại cho thấy 
kết quả không có sự chênh lệch đáng kể. Ngoài ra, 
kết quả bài kiểm tra giữa 2 giờ học cũng không 
thấy sự chênh lệch. Như vậy, dù có áp dụng PR 
hay không thì cũng không cho thấy sự thay đổi 
năng lực đọc hiểu của sinh viên chăng? 
Bảng 4. Kết quả Pre-Test và Post Test của 2 lớp (+P/-P) 
+P -P 
ID Pre-test Post-test ID Pre-test Post-test 
S1 7 7 S1 6 6 
S2 7 7 S2 4 - 
S3 6 7 S3 7 - 
S4 5 6 S4 6 6 
S5 5 7 S5 6 7 
S6 7 6 S6 4 6 
S7 - 5 S7 6 5 
S8 8 7 S8 3 - 
S9 7 6 S9 4 - 
S10 8 6 S10 4 - 
S11 7 8 S11 6 - 
S12 5 7 S12 6 - 
S13 5 6 TB 5.16 6.0 
S14 4 7 -:Vắng mặt 
 S15 6 - 
S16 6 5 
TB 6.2 6.46 
Chúng tôi đã tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến kết 
quả này và ghi nhận được 2 khả năng. Trước hết, 
trong quá trình dạy thử nghiệm, lớp học -P có đến 
hơn 50% sinh viên ngừng tham gia giữa chừng 
khiến cho lớp học bị thu hẹp quân số, còn tại lớp 
học +P có 1 sinh viên (S15) vắng mặt trong buổi 
làm bài Post-test nhưng lại có thêm 1 sinh viên xin 
tham gia sau buổi Pre-test nên sĩ số lớp không 
thay đổi. Ngoài ra, lớp học -P chỉ có duy nhất 1 
sinh viên (S6) đạt kết quả cao nhất trong số 6 bạn 
cùng học. Điều này cho thấy, nếu tính cả những 
sinh viên không tham gia tiếp tục tại lớp -P thì khả 
năng cho thấy sự chênh lệch điểm số của 2 lớp rất 
cao. Một khả năng nữa, chính là với thời lượng 
dạy thử nghiệm ngắn (1 tháng), nên có thể chưa 
đánh giá được sự thay đổi về điểm số môn học một 
cách rõ ràng. 
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 
229 
Với những lí do trên, chúng tôi băn khoăn về 
việc liệu đánh giá năng lực đọc hiểu của sinh viên 
thông qua dạng bài kiểm tra như thế này có nâng 
cao được hiệu quả của PL hay không? Bởi nếu nói 
về đánh giá mức độ hỗ trợ nhau trong quá trình 
đọc chắc chắn phải có câu hỏi liên quan đến quá 
trình đọc, chẳng hạn như sinh viên S1 đã đọc như 
thế nào? Chúng tôi cho rằng, kĩ năng mà sinh viên 
thu được sau khi học Peer Learning chắc chắn 
không dừng lại ở việc thay đổi điểm số và điều 
này cần có một phương pháp đánh giá phù hợp hơn 
và được nghiên cứu sâu hơn nữa. 
3.3. Kết quả điều tra đánh giá của sinh viên 
về giờ học PR 
Sau khi kết thúc giờ học thử nghiệm, chúng tôi 
đã tiến hành cho sinh viên làm bản điều tra đánh 
giá giờ học với phương pháp PR và thu được 13 
phiếu trả lời. Kết quả (Bảng 5) cho thấy có 8 sinh 
viên trả lời “Rất hài lòng với giờ học PR” chiếm 
62% và 5 sinh viên trả lời “Hài lòng với giờ học 
PR” chiếm 38%. Ngoài ra, có 5 sinh viên trả lời 
“Giờ học PR rất hữu ích” chiếm 38% và 8 sinh 
viên trả lời “Giờ học PR có mang lại hiệu quả” 
chiếm 62%. Điều này cho thấy, nếu tính cả việc 
hơn một nửa số sinh viên dừng tham gia lớp học -
P thì giờ học PR lại nhận được nhiều phản hồi rất 
tích cực. 
Ngoài ra, trong mục đánh giá nhận thức của 
sinh viên đối với giờ học PR, tất cả số sinh viên 
được hỏi đều cho rằng PR giúp các bạn giảm thiểu 
sự lo lắng khi học và 12/13 sinh viên cho rằng PR 
hỗ trợ cho việc tiếp thu các kĩ năng đọc hiểu thông 
qua việc trao đổi với bạn học. Đây là kết quả 
giống với các nghiên cứu đi trước của giáo sư 
Tateoka (2000, 2005). 
Bảng 5. Kết quả điều tra Đánh giá của sinh viên đối với giờ học PR 
1. Cho đến bây giờ bạn đã từng tham gia một giờ học Peer Reading như thế này bao giờ chưa? 
Đã từng tham gia Chưa từng tham gia 
0 (0%) 13 (100 %) 
2. Mức độ hài lòng của bạn đối với giờ học Peer Reading? 
Rất hài lòng Hài lòng Không ý kiến 
gì 
Không hài lòng lắm Không hài lòng 
8 SV 
62 
5 SV 
38 
0 SV 
0. 
0 SV 
0. 
0 SV 
0. 
3. Trải nghiệm tại giờ học Peer Reading có giúp ích được gì cho bạn? 
Rất nhiều Nhiều Không ý kiến 
gì 
Ít Hoàn toàn không 
5 SV 
38 
8 SV 
62 
0 SV 
0. 
0 SV 
0. 
0 SV 
0. 
4. Những thay đổi sau khi học Peer Reading? 
Giảm thiểu sự lo lắng khi học đọc hiểu 13 SV 100% 
Học hỏi lẫn nhau cách thức giải quyết bài đọc trong quá trình nhận 
thức 
12 SV 92,3% 
Nâng cao ý thức học tập thông qua cách học tương tác và hỗ trợ nhau 
trong nhóm 
10 SV 76,9% 
Thay đổi cách học 7 SV 53,9% 
Tiu ban 1: Đào to chuyên ng 
230 
Mặt khác, trong mục tự do viết nhận xét, chúng 
tôi cũng ghi lại được nhiều ý kiến tương tự như sau: 
“Các bài đọc cô chọn dễ hiểu, nội dung hấp 
dẫn. Cách đoán kết thúc của câu chuyện tăng khả 
năng sáng tạo cho sinh viên. Tuy nhiên, phương 
pháp học này bản thân em vẫn cảm thấy mơ hồ 
khi áp dụng vào làm bài thi đọc hiểu.” (+P/S4) 
Sinh viên cảm thấy rất hào hứng với cách học 
tư duy sáng tạo của PR, nhưng đồng thời cũng 
nghi vấn đối với đánh giá kết quả học tập sau giờ 
học PR. Đây là kết quả mà các nghiên cứu trước 
đây chưa đề cập đến. 
4. Kết luận 
Thông qua việc so sánh 2 giờ học đọc hiểu có 
áp dụng PR và không áp dụng PR trong môi 
trường giảng dạy tiếng Nhật tại Việt Nam với 
cùng một tài liệu giảng dạy, bài viết đã tiến hành 
khảo sát hiệu quả của phương pháp này và nhận 
định được một số kết quả sau. 
1) Lượng phát ngôn của sinh viên trong giờ 
học +P nhiều hơn giờ học -P, đặc biệt là số lượng 
phát ngôn câu hỏi giữa sinh viên trong quá trình 
trao đổi bài học tại giờ +P nhiều hơn hẳn giờ học -
P. Tuy nhiên, vẫn còn hiện tượng nhầm lẫn khi 
trao đổi thông tin. 
2) Theo kết quả bài kiểm tra Pre-test và Post-
test, bình quân điểm số bài Post-test trong cả 2 giờ 
học +P và -P đều cao hơn so với bài Pre-test. So 
sánh bình quân điểm số giữa +P và -P thì điểm số 
giờ học +P cũng cao hơn. 
3) Kết quả điều tra sau giờ dạy thử nghiệm cho 
thấy sinh viên phản ứng rất tích cực đối với giờ 
học PR, giảm thiểu sự lo lắng và tạo hứng thú cho 
sinh viên khi học tiếng Nhật. Điều này cho thấy, 
phương pháp PR có hiệu quả không chỉ về mặt 
nhận thứ