TÓM TẮT
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một vấn đề nóng bỏng và mang tính toàn cầu. Những
năm gần đây, cùng với sự phát triển của xã hội, nhất là các ngành công nghiệp và sự bùng
nổ dân số đã tác động tiêu cực đến môi trường mà xa hơn là tác động tiêu cực đối với khí
hậu. Là thế hệ giáo viên tương lai, sinh viên sư phạm cần có kiến thức và năng lực ứng
phó với BĐKH. Với đề tài này, tác giả mong muốn mang đến cái nhìn cận cảnh về những
hiểu biết của sinh viên cũng như có những đánh giá về năng lực, từ đó đưa ra những biện
pháp nhằm nâng cao hiểu biết và năng lực ứng phó với BĐKH cho sinh viên.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 507 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá mức độ hiểu biết và năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
86
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HIỂU BIẾT
VÀ NĂNG LỰC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
Trương Thị Thanh Tuyền,
Võ Thị Hải Yến,
Nguyễn Đức Huy
(Sinh viên năm 3, Khoa Địa lí)
GVHD: ThS Tạ Thị Ngọc Bích
TÓM TẮT
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một vấn đề nóng bỏng và mang tính toàn cầu. Những
năm gần đây, cùng với sự phát triển của xã hội, nhất là các ngành công nghiệp và sự bùng
nổ dân số đã tác động tiêu cực đến môi trường mà xa hơn là tác động tiêu cực đối với khí
hậu. Là thế hệ giáo viên tương lai, sinh viên sư phạm cần có kiến thức và năng lực ứng
phó với BĐKH. Với đề tài này, tác giả mong muốn mang đến cái nhìn cận cảnh về những
hiểu biết của sinh viên cũng như có những đánh giá về năng lực, từ đó đưa ra những biện
pháp nhằm nâng cao hiểu biết và năng lực ứng phó với BĐKH cho sinh viên.
Từ khóa: hiểu biết, năng lực, biến đổi khí hậu.
ABSTRACT
Assessment on the understandings and competence for coping with climate change
of students at Ho Chi Minh City University of Pedagogy
Climate change is one of global issues nowadays. Recently, the development of
society, industries and the explosion of population alltogether has a negative impact on the
environment, leading to climate change. Pedagogic students will become teachers;
therefore, their ability to understand and deal with climate change is an essential skill. By
doing this research, we hope to give a close view of the students’ understandings, as well
as their competence for coping with climate change. Based on these results, measures will
be taken to improve the understandings and ability to deal with climate change.
Keywords: understanding, competence, climate change.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, nhân loại đang đứng trước những thách thức vô cùng nghiêm trọng của
sự thay đổi khí hậu toàn cầu và những hệ lụy của nó. Những hệ lụy này đã, đang và sẽ
ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân loại trên các phương diện vật chất và tinh thần.
Việt Nam được đánh giá là một trong số các quốc gia bị tác động nặng nề nhất
của BĐKH, đặc biệt, đồng bằng Sông Cửu Long là một trong ba đồng bằng trên thế
giới dễ bị tổn thương nhất bởi nước biển dâng [WB, 2007; Bộ TN&MT, 2008, 2009,
2011]. Nhận thức rõ tác động của BĐKH, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng và triển
khai thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu”. Các Bộ,
Năm học 2015 - 2016
87
ngành và địa phương đã và đang xây dựng kế hoạch hành động để ứng phó với những
tác động cấp bách trước mắt và tiềm tàng lâu dài của biến đổi khí hậu [3].
Đối với sự phát triển bền vững của nhân loại, việc tìm hiểu mức độ hiểu biết và
năng lực của sinh viên trong ứng phó với BĐKH là điều cần thiết. Đặc biệt là sinh viên
các trường sư phạm – những nhà giáo tương lai của đất nước. Bài viết đánh giá mức độ
hiểu biết và năng lực ứng phó với BĐKH của sinh viên Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP TPHCM), từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiểu biết và năng lực ứng phó cho sinh viên đối với vấn đề toàn cầu này.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm
- Biến đổi khí hậu: là những thay đổi của khí hậu, trong đó, bao gồm cả những
biến đổi tự nhiên và những biến đổi do con người tao ra. BĐKH xuất phát từ mất cân
bằng năng lượng của Trái Đất do thay đổi nồng độ các khí nhà kính, nồng độ bụi trong
khí quyển và lượng bức xạ mặt trời.
- Ứng phó với BĐKH là các hoạt động của con người nhằm thích ứng và giảm
nhẹ BĐKH [1].
- Sự hiểu biết (hay hiểu ý nghĩa): là thành phần quan trọng và phức tạp nhất của
quá trình nhận thức, nó thể hiện trong việc phát hiện các mối quan hệ khách quan trong
việc thấu suốt ý nghĩa của lời nói hay của các bài viết, kể cả ý nghĩa của các thuật ngữ
cũng như các tư tưởng, những ý ẩn ở bên trong câu chữ. Trong sự hiểu biết, tư duy liên
hệ chặt chẽ với biểu tượng trí nhớ và với trí tưởng tượng sáng tạo. [2]
- Năng lực: là tổ hợp các thuộc tính tâm lý độc đáo của cá nhân phù hợp với
những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó nhanh chóng
đạt kết quả. [1]
2.2. Mức độ hiểu biết và năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu của sinh viên
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Mức độ hiểu biết về biến đổi khí hậu của sinh viên Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Trong bài nghiên cứu này, tác giả dựa theo thang đánh giá các giai đoạn hiểu biết
của tác giả Nguyễn Dược để đánh giá mức độ hiểu biết của sinh viên Trường ĐHSP
TPHCM. Tuy chỉ gồm ba mức nhưng nó đã phản ánh được sự phân hóa rõ rệt trong
nhận thức của sinh viên, đồng thời dễ áp dụng trong công tác đánh giá kết quả khách
quan trên thực tế, cũng như gần với hoạt động khảo sát sinh viên trên một quy mô lớn
như Trường ĐHSP TPHCM.
Trong quá trình nhận thức, sự hiểu biết không phải lúc nào cũng diễn ra trôi chảy,
nhanh chóng. Trong nhiều trường hợp, nó đòi hỏi phải có thời gian nhất định. Sự diễn
Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
88
biến có thể phân ra 3 giai đoạn: giai đoạn biết vấn đề, giai đoạn hiểu sơ bộ và cuối cùng
là giai đoạn đột biến – sự thông hiểu ý nghĩa của vấn đề bỗng nhiên bật ra.
+ Giai đoạn biết vấn đề: trong nhiều trường hợp mới chỉ là biết tên đối tượng,
hiểu một số thuật ngữ, biết một vài thuộc tính của đối tượng. Giai đoạn này tương ứng
với mức độ 2 (chưa rõ) trong bài nghiên cứu của tác giả.
+ Giai đoạn hiểu biết sơ bộ: là bước rất quan trọng trong quá trình hiểu biết.
Trong giai đoạn này có thể phát hiện được các mối liên hệ khách quan giữa các sự vật,
hiện tượng và quá trình, các yếu tố của kiến thức. Giai đoạn này tương ứng với mức độ
3 (hiểu biết sơ bộ) trong bài nghiên cứu của tác giả.
+ Giai đoạn đột biến: là giai đoạn rất đặc biệt, nó là kết quả của một quá trình
tiệm tiến, nếu không có quá trình này thì không có sự đột biến. Đó chính là tiếng kêu
“Euréka” của Archimedes trong bồn tắm khi ông phát hiện ra quy luật về lực đẩy tác
động vào các vật chìm trong môi trường lỏng. Giai đoạn này tương ứng với mức độ 4
(sâu sắc) trong bài nghiên cứu của tác giả.
Để có được giai đoạn này thì phải có mối quan hệ giữa các biểu tượng trí nhớ với
tư duy và trí tưởng tượng sáng tạo. Ở đây đòi hỏi phải có sự dẫn dắt khéo léo của giáo
viên để phát huy đến mức cao nhất những hoạt động trí tuệ.
Nhận thức đúng về BĐKH là cơ sở quan trọng để sinh viên có các hoạt động ứng
phó với BĐKH. Sinh viên đã có những hiểu biết cơ bản về khái niệm, nguyên nhân và
biểu hiện của BĐKH. Tuy nhiên, nhận thức của sinh viên các khối, các khóa cũng có
sự khác nhau. Để đánh giá được mức độ hiểu biết của sinh viên về BĐKH, tác giả thực
hiện bảng khảo sát với các câu hỏi có nội dung xoay quanh chủ yếu vào các khái niệm,
biểu hiện của BĐKH, cho sinh viên tự đánh giá theo thang gồm bốn mức như sau: mức
độ (1): không biết; mức độ (2): chưa rõ; mức độ (3): hiểu biết sơ bộ; mức độ (4): sâu
sắc.
Các vấn đề khảo sát gồm có:
- Hiện tượng Elnino, La Nina;
- Kịch bản khí hậu;
- Mô hình khí hậu;
- Hiệu ứng nhà kính;
- Hiện tượng nước biển dâng;
- Hiện tượng nóng lên toàn cầu;
- Diễn biến của tình hình khí hậu toàn cầu hiện nay;
- Tác động tiêu cực mà BĐKH mang lại.
Sau quá trình thực hiện bảng khảo sát, kết quả thu được sẽ được tổng hợp và tiến
hành phân tích, so sánh phân theo khối ngành và phân theo khóa.
Năm học 2015 - 2016
89
a) Đánh giá sơ bộ mức độ hiểu biết trên toàn bộ sinh viên được khảo sát
Sử dụng phiếu điều tra, nhóm nghiên cứu đã tiến hành điều tra 500 sinh viên
Trường ĐHSPTPHCM theo phương pháp ngẫu nhiên phân lớp theo khối ngành và
khóa học. Các khoa được khảo sát chia thành 3 khối: khối khoa học tự nhiên, khối khoa
học xã hội và khối đặc thù. Khảo sát trên 4 khóa: 38, 39, 40, 41. Sau khi làm sạch mẫu
còn lại 465 phiếu điều tra được xử lí số liệu.
Bảng 1. Nhận thức của toàn bộ sinh viên được khảo sát về biến đổi khí hậu
Mức độ
Nội dung
Không biết Chưa rõ Hiểu sơ bộ Sâu sắc
Số
lượng
(SV)
Tỉ
lệ
(%)
Số
lượng
(SV)
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
(SV)
Tỉ
lệ
(%)
Số
lượng
(SV)
Tỉ
lệ
(%)
1. El Nino và La Nina 191 41,1 58 12,5 158 34,0 58 12,5
2. Kịch bản khí hậu 159 34,2 94 20,2 141 30,3 71 15,3
3. Mô hình khí hậu 172 37,0 148 31,8 85 18,3 60 12,9
4. Hiệu ứng nhà kính 1 0,2 51 11,0 297 63,9 116 25,0
5. Nước biển dâng 0 0,0 35 7,5 276 59,4 154 33,1
6. Nóng lên toàn cầu 0 0,0 8 1,7 295 63,4 162 34,8
7. Diễn biến tình hình khí
hậu hiện nay 0 0,0 112 24,1 298 64,1 55 11,8
8. Tác động của BĐKH 0 0,0 29 6,2 343 73,8 93 20,0
- Khi được hỏi về sự hiểu biết đối với hiện tượng El Nino, La Nina, số lượng ý
kiến không biết về hiện tượng này chiếm tỉ lệ 41,1%, cao nhất trong các ý kiến. Song
với mức độ (3): hiểu biết sơ bộ, cũng khá nhiều sinh viên lựa chọn chiếm tỉ lệ 34%.
Như vậy, với câu hỏi này, tỉ lệ biết và không biết tương đương nhau.
- Khi được hỏi về kịch bản khí hậu, số lượng không biết chiếm hơn (34,2%),
trong khi số lượng hiểu biết sâu sắc chỉ chiếm 15,3%.
- Khi được hỏi về khái niệm mô hình khí hậu, số lượng sinh viên không biết hoặc
chưa rõ chiếm tỉ lệ trên 60%.
- Ở các câu hỏi về hiệu ứng nhà kính, nước biển dâng và nóng lên toàn câu, số
lượng ý kiến tự đánh giá ở mức độ hiểu biết sơ bộ và sâu sắc rất cao, tổng thể trên 80%.
- Đối với diễn biến của tình hình khí hậu hiện nay, nhiều sinh viên tự đánh giá ở
mức độ hiểu biết sơ bộ (64,1%) với các mức đánh giá chưa rõ và chưa sâu sắc, tỉ lệ
không cao.
- Đánh giá về những hiểu biết của bản thân của sinh viên đối với những tác động
tiêu cực của BĐKH, có tới 73,8% sinh viên hiểu biết sơ bộ về những tác động tiêu cực
của BĐKH, số lượng chưa rõ và sâu sắc không nhiều.
Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
90
b) Đánh giá mức độ hiểu biết của sinh viên phân theo khối ngành
- Khối khoa học tự nhiên
Đối với khối ngành khoa học tự nhiên, tác giả tiến hành khảo sát ngẫu nhiên và
thu được 141 phiếu. Kết quả khảo sát như sau:
+ Đối với những câu hỏi về các khái niệm El Nino, La Nina, Kịch bản khí hậu,
Mô hình khí hậu, các sinh viên khối khoa học tự nhiên phần lớn là không biết với dao
động trên 40% không biết. Tuy nhiên số lượng hiểu biết sơ bộ cũng khá nhiều, với 20 –
40%. Số lượng sinh viên biết sâu sắc về vấn đề này không có.
+ Đối với khảo sát về các hiện tượng như Hiệu ứng nhà kính, Nước biển dâng,
Nóng lên toàn cầu, không có sinh viên nào không biết, số hiểu biết chưa rõ cũng rất
thấp, trong khi đó số lượng hiểu biết sơ bộ chiếm tỉ lệ áp đảo, dao động trên 75%.
+ Đối với diễn biến của tình hình khí hậu, số lượng sinh viên khối Tự nhiên chưa
rõ và hiểu biết sơ bộ khá ngang bằng và chiếm tỉ lệ cao, gần 50% cho mỗi mức độ.
+ Với những tác động tiêu cực mà BĐKH mang lại, hầu hết sinh viên đều tự đánh
giá ở mức độ hiểu biết sơ bộ với gần 80%.
- Khối khoa học xã hội
Đối với khối ngành khoa học xã hội, tác giả cũng tiến hành khảo sát ngẫu nhiên
và thu được 211 phiếu. Kết quả khảo sát:
+ Đối với những câu hỏi về các khái niệm El Nino, La Nina, Kịch bản khí hậu,
Mô hình khí hậu, ý kiến các sinh viên khối khoa học xã hội rải đều ở cả bốn mức độ.
Từ đó có thể nhận định đối với các khái niệm mới, lạ, sinh viên khối xã hội đã có sự
tiếp cận khá tốt so với tình hình chung.
+ Đối với khảo sát về các hiện tượng như Hiệu ứng nhà kính, Nước biển dâng,
Nóng lên toàn cầu, không có sinh viên nào không biết, số lượng ý kiến cho rằng bản
thân hiểu biết sơ bộ và sâu sắc khá cao, trên 90%, trong đó mức độ sâu sắc cũng chiếm
ưu thế.
+ Đối với diễn biến của tình hình khí hậu, số lượng sinh viên khối Xã hội hiểu
biết sơ bộ chiếm tỉ lệ cao nhất với 71,1%. Ở hai mức độ chưa rõ và sâu sắc, tỉ lệ này
không nhiều.
+ Với những tác động tiêu cực mà BĐKH mang lại, hai mức độ hiểu biết sơ bộ và
sâu sắc chiếm gần 100%, mức độ chưa rõ không đáng kể khi chỉ chiếm 0,5%.
- Khối đặc thù
Đối với khối ngành đặc thù, tác giả tiến hành khảo sát ngẫu nhiên và thu được
113 phiếu. Kết quả khảo sát:
Năm học 2015 - 2016
91
+ Đối với những câu hỏi về các khái niệm El Nino, La Nina, Kịch bản khí hậu,
Mô hình khí hậu, ý kiến các sinh viên khối đặc thù chủ yếu tự đánh giá ở mức không
biết, số lượng chưa rõ cũng chiếm tỉ lệ khá cao. Tổng 2 mức độ này đều trên 60%. Các
khái niệm khác, số sinh viên hiểu biết không nhiều.
+ Đối với khảo sát về các hiện tượng như Hiệu ứng nhà kính, Nước biển dâng,
Nóng lên toàn cầu, không có sinh viên nào không biết, số lượng ý kiến cho rằng bản
thân hiểu biết sơ bộ chiếm hoàn toàn ưu thế với tỉ lệ đều trên 60%. Các mức độ hiểu
biết sâu sắc về nước biển dâng và nóng lên toàn cầu cũng khá cao, đều trên 20%.
+ Đối với diễn biến của tình hình khí hậu, số lượng sinh viên khối Đặc thù chủ
yếu đánh giá bản thân hiểu biết sơ bộ, với gần 70%, các mức độ chưa rõ và sâu sắc
chưa nhiều.
+ Với những tác động tiêu cực mà BĐKH mang lại, mức độ hiểu biết sơ bộ của
sinh viên khối đặc thù chiếm tỉ lệ cao nhất với 77,9%. Các mức độ còn lại không đáng
kể.
- Nhận xét chung
Trên khía cạnh các sinh viên chia theo khối, có thể nhận thấy sinh viên khối xã
hội đã có những nhận định khá rõ ràng về các khái niệm cũng như những biểu hiện của
biến đối khí hậu. Trong khi đó, sinh viên khối tự nhiên và khối đặc thù có những hiểu
biết chưa sâu sắc về những vấn đề nêu trên.
Bên cạnh đó, có thể nhận ra những nội dung liên quan về Nóng lên toàn cầu,
Nước biển dâng hay Hiệu ứng nhà kính đã có những quan tâm nhất định, số lượng hiểu
biết sơ bộ và sâu sắc của cả ba khối khá cao.
Ngược lại, các khái niệm El Nino, La Nina, Kịch bản khí hậu, Mô hình khí hậu
chưa được hiểu biết nhiều trong sinh viên.
c) Đánh giá mức độ hiểu biết của sinh viên phân theo khóa
- Nhận thức của sinh viên khóa 41 (K41)
Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
92
Trong biểu đồ thể hiện tỉ lệ nhận thức sinh viên K41 phân theo 4 mức độ, ta có
thể thấy nhận thức của sinh viên về khái niệm và biểu hiện của BĐKH ở mức (3): hiểu
sơ bộ là cao nhất (chiếm 53,2%). Mức cao thứ hai là mức (1): không biết (chiếm 18%)
chênh lệch khá cao so với mức 3, nhưng lại chênh lệch khá ít so với mức 2 và mức 4.
Như vậy có sự chênh lệch khá lớn về nhận thức của sinh viên, đa phần là hiểu sơ bộ,
còn bộ phận còn lại chia đều cho cả 3 mức còn lại.
Như vậy ta có thể có cái nhìn tổng quát về K41: có nhận thức khá cao về khái
niệm và biểu hiện của BĐKH vì khoảng trên 67% sinh viên có nhận thức từ hiểu sơ bộ
đến hiểu sâu sắc.
- Nhận thức của sinh viên khóa 40 (K40)
Qua biểu đồ tỉ lệ nhận thức sinh viên K40 phân theo mức độ ta có thể thấy 55,1%
sinh viên hiểu ở mức độ sơ bộ các khái niệm và biểu hiện của BĐKH, thấp nhất là
9,1% ý kiến cho rằng hiểu sâu sắc. Mặc dù mức độ hiểu từ sơ bộ đến hiểu sâu sắc
chiếm tỉ lệ khá cao nhưng tỉ lệ hiểu ở mức 1 và mức 2 cũng không thấp. Mức 1 chiếm
đến 24,1%.
- Nhận thức của sinh viên khóa 39 (K39)
Năm học 2015 - 2016
93
Dựa vào biểu đồ trên ta có thể nhận thấy mức độ hiểu biết về các hiện tượng, khái
niệm của BĐKH ở khóa K39 khá tốt, trên 70% sinh viên có sự hiểu biết từ sơ bộ đến
sâu sắc trong đó hiểu sơ bộ chiếm 54,4%. Mức độ không biết chiếm tỉ lệ thấp 7,2%.
- Nhận thức của sinh viên khóa 38 (K38)
Dựa vào biểu đồ trên ta có thể thấy mức độ hiểu biết của sinh viên K38 cũng khá
cao, có đến 35,3% ý kiến cho là hiểu ở mức sâu sắc, chiếm tỉ lệ cao nhất trong các
khóa. Và có 34,7% ý kiến cho rằng hiểu ở mức hiểu sơ bộ. Ở mức hiểu chưa rõ và
không biết chỉ chiếm khoảng 30%.
- Nhận xét chung
Dựa vào kết quả khảo sát về khái niệm, biểu hiện của một số hiện tượng về
BĐKH với việc chia đối tượng thành các khóa học khác nhau, kết quả thu được đã có
sự phân hóa giữa các khóa như sau:
+ Khi được hỏi về khái niệm, biểu hiện của El Nino, La Nina, Kịch bản khí hậu,
Mô hình khí hậu, số lượng sinh viên K38 và K39 tự đánh giá từ mức độ hiểu biết sơ bộ
trở lên đạt mức cao, xấp xỉ trên 50%. Từ kết quả nêu trên, có thể thấy sinh viên các
khóa trước đã có sự tiếp cận đối với nội dung BĐKH, thông qua một số phương tiện
thông tin, tuyên truyền hoặc thông qua các môn học (như Thiên tai Việt Nam, Môi
trường và sự phát triển bền vững). Đối với sinh viên các khóa K40, K41, tỉ lệ không
biết các khái niệm này ở mức cao, từ trên 40 đến 60%.
+ Khi được khảo sát về những khái niệm Hiệu ứng nhà kính, Nước biển dâng,
Nóng lên toàn cầu, số lượng nhận được khá tương đồng cho cả 4 khóa. Các khóa chủ
yếu tự đánh giá ở mức hiểu biết sơ bộ, tỉ lệ sâu sắc cũng khá nhiều. Có thể đánh giá
được đây là những nội dung khá phổ biến và được tiếp cận ở mức đại trà trong sinh
viên.
+ Ở câu hỏi về những diễn biến của tình hình khí hậu toàn cầu và những hậu quả
của BĐKH gây ra, mức độ hiểu biết sơ bộ chiếm ưu thế ở cả 4 khóa. Trong đó các khóa
39, 38 có tỉ lệ hiểu biết sâu sắc cao.
Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
94
2.2.2. Đánh giá năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu của sinh viên Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Sinh viên cảm thấy khó khăn trong việc ứng phó với nhiều thiên tai và hiện tượng
thời tiết cực đoan do BĐKH gây ra. Trong đó, suy giảm tầng ozone, bão và áp thấp
nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán và thiếu nước là những vấn đề sinh viên cho rằng có mức độ
khó khăn từ lớn đến rất lớn, mức độ này chiếm tỉ trọng cao hơn 2 mức độ còn lại.
Trong khi đó, mức độ bình thường lại chiếm ưu thế hơn đối với các vấn đề như nhiệt
độ thay đổi bất thường, triều cường, ô nhiễm không khí và ô nhiễm nước, vì những vấn
đề này đa phần sinh viên cho rằng đã có biện pháp ứng phó thích hợp. Còn với mức độ
dễ dàng ứng phó, tỉ lệ chiếm rất nhỏ và nhỏ nhất trong 3 mức. Đặc biệt là suy giảm
tầng ozone, bão và áp thấp nhiệt đới là hai vấn đề có tỉ lệ ở mức dễ dàng rất thấp, chưa
tới 1%. Những vấn đề được nhiều sinh viên đánh giá ở mức dễ dàng là nhiệt độ thay
đổi bất thường và ô nhiễm nước, nguyên nhân là do khoa học – kĩ thuật phát triển với
nhiều phát minh sáng chế mới giải quyết được các vấn đề này (biểu đồ 5).
Nhận thức đúng về các hoạt động cần làm để ứng phó với BĐKH sẽ giúp sinh
viên tích cực tham gia các hoạt động thiết thực để góp phần thích ứng và giảm thiểu
BĐKH hiện nay và mai sau. Sinh viên đã xác định và thực hiện nhiều hoạt động rất
thiết thực trong cuộc sống để góp phần ứng phó với BĐKH (bảng 2). Lý do được các
bạn nêu ra là: Giúp tiết kiệm chi phí sinh hoạt; làm cho môi trường sống sạch hơn, đẹp
hơn; được thể hiện mình trước bạn bè, thầy cô; thấy được trách nhiệm trong các hoạt
Năm học 2015 - 2016
95
động vì cộng đồng; rèn luyện được tác phong làm việc và trưởng thành hơn; huy động
được nhiều người tham gia
Bảng 2. Các hoạt động sinh viên đã tham gia ứng phó với BĐKH
STT Các hoạt động ứng phó với BĐKH của sinh viên Số lượng (SV)
Tỉ lệ
(%)
1 Sử dụng tiết kiệm điện, nước, chất tẩy rửa 442 95,1
2 Hạn chế sử dụng, tái sử dụng túi nilong, giấy viết 327 70,3
3 Tham gia các hoạt động chương trình Giờ Trái Đất 375 80,6
4 Tham gia Chủ nhật xanh, dọn vệ sinh môi trường 386 83,0
5 Tham gia sinh hoạt câu lạc bộ giáo dục môi trường 34 7,3
6 Trồng và chăm sóc cây xanh khuôn viên khoa, nhà trường 113 24,3
7 Tuyên truyền mọi người tham gia bảo vệ môi trường 242 52,0
Mặc dù, sinh viên đã có nhận thức khá tốt về những hoạt động cần làm để góp
phần cùng cộng đồng chống BĐKH, nhưng khi hỏi về các giải pháp, các hoạt động của
cộng đồng quốc tế và Chính phủ Việt Nam trong việc thích ứng và giảm nhẹ BĐKH thì
đại đa số sinh viên trả lời không biết.
Kết quả điều tra những hoạt động của sinh viên gây ra ô nhiễm môi trường, phát
thải khí nhà kính được các bạn chỉ ra: Sinh viên vẫn còn xả rác bừa bãi (giảng đường,
KTX, khu trọ...); đốt lửa trại trong các đợt dã ngoại, vui chơi, cắm trại; đốt lá cây, túi
nilong, giấy khi dọn vệ sinh Như vậy, mặc dù sinh viên đã có nhận thức khá đầy đủ,
đúng về các hoạt động phòng chống BĐKH nhưng thực tế, còn không ít hoạt động của
sinh viên ít nh