Đào tạo theo tín chỉ: Những vấn đề về lí luận và tổ chức thực hiện

TÓM TẮT Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chuyển toàn bộ hệ thống đào tạo đại học ở nước ta thành đào tạo theo tín chỉ. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã và đang triển khai những hoạt động thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó. Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày những hiểu biết về đào tạo theo tín chỉ, góp phần làm rõ hơn hình thức đào tạo này. Nhiều điều trong bài viết được đúc rút từ những năm giảng dạy và trao đổi nghiên cứu khoa học tại các trường đại học nước ngoài của tác giả.

pdf13 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 445 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo theo tín chỉ: Những vấn đề về lí luận và tổ chức thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68 TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 - Thaùng 4/2012 ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÍ LUẬN VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỖ ĐỨC THÁI(*) TÓM TẮT Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chuyển toàn bộ hệ thống đào tạo đại học ở nước ta thành đào tạo theo tín chỉ. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã và đang triển khai những hoạt động thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó. Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày những hiểu biết về đào tạo theo tín chỉ, góp phần làm rõ hơn hình thức đào tạo này. Nhiều điều trong bài viết được đúc rút từ những năm giảng dạy và trao đổi nghiên cứu khoa học tại các trường đại học nước ngoài của tác giả. Từ khoá: giáo dục, đào tạo, tín chỉ, hệ thống, nghiên cứu, giảng viên, nguyên tắc, quản lí ABSTRACT The Ministry of Education and Training has decided to change the whole system of university training in our country into credit-based training. Hanoi University of Education has been carrying out the activities for this task. In this article, we will present some of our knowledge on credit-based training to clarify this form of training. Most of the materials in this article have been drawn from the writer’s years of teaching, doing scientific research, and exchanging experience at foreign universities. Key words: education, training, credit, system, do research, lecturer, rule, manage 1. NHỮNG LÍ DO CHUYỂN TỪ HÌNH THỨC ĐÀO TẠO THEO NIÊN CHẾ SANG HÌNH THỨC ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ Đào tạo theo tín chỉ đã được áp dụng từ lâu trong các trường đại học của Mĩ, Canađa, Nhật và một số nước châu Âu Sở dĩ các nước đó chọn sự chuyển đổi phương thức đào tạo như vậy vì nhiều nguyên nhân. Ta có thể điểm ra đây một vài nguyên nhân chính và đó cũng chính là những lợi ích cơ bản của phương thức đào tạo theo tín chỉ. 1.1. Sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học và kĩ thuật đã kéo theo sự bùng nổ của tri thức nhân loại với tốc độ ngày càng lớn. (*) GS.TSKH, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Để có thể tạo ra được những phát minh mới, những tiến bộ khoa học và kĩ thuật mới - những nhân tố sống còn của nền kinh tế tri thức - đòi hỏi hệ thống giáo dục đại học của mỗi quốc gia phải cung ứng được một nguồn nhân lực trình độ cao và có khả năng thích ứng với những thay đổi đó. Điều đó tạo nên một sức ép lớn lên quá trình đào tạo: sinh viên phải được học nhiều kiến thức hơn, kiến thức phải sâu hơn, năng lực vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn phải tốt hơn Trong khi đó, quỹ thời gian đào tạo lại đang có xu hướng giảm xuống. Đào tạo theo tín chỉ là phương thức đào tạo có thể giải quyết được mâu thuẫn trên. Nó tạo ra một cơ chế, một chương trình đào tạo chủ động, linh hoạt 69 cho người học và cho cả các nhà quản lí giáo dục. 1.2. Trong khoa học ngày nay, sự tích hợp đan xen vào nhau giữa các lĩnh vực trong cùng một ngành và giữa các ngành khoa học khác nhau đã và đang là một xu thế chiếm vai trò chủ đạo. Có thể nói, khó có những phát minh quan trọng nào mà không có dấu ấn của sự tích hợp đó. Vì thế, cần phải tạo ra cho sinh viên cơ hội được học những kiến thức ở nhiều lĩnh vực trong cùng một thời điểm. Tạo cho họ khả năng nhìn nhận tri thức một cách tổng quan trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Quy trình đào tạo theo niên chế nặng về sự tiện lợi cho người quản lí hơn là vì quyền lợi của người học. Nền kinh tế tri thức ngày càng đòi hỏi người lao động học tập suốt đời, cập nhật kiến thức và kĩ năng lao động mới suốt đời. Vì thế, song song với việc dạy cho sinh viên khả năng và thói quen tự học, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo thì hệ thống giáo dục đại học cần phải thay đổi, tạo ra thể chế nhập học mềm dẻo để người học có thể học đại học bất cứ lúc nào và không chỉ một lần trong suốt cả cuộc đời. Nhờ tính chủ động, linh hoạt cho người học, phương thức đào tạo theo tín chỉ có thể giải quyết được nhiệm vụ đó. Một sinh viên vừa đi làm, vừa đi học, hay vì một điều kiện nào đó, có thể chọn cách đăng kí môn học phù hợp để hoàn thành chương trình cử nhân trong thời hạn quy định. 1.3. Đào tạo theo tín chỉ tạo ra một cơ chế thuận lợi trong việc liên thông giữa các ngành, nghề khác nhau trong cùng một trường đại học và liên thông giữa các trường đại học khác nhau. Nói chung, đào tạo theo tín chỉ phản ánh một triết lí giáo dục chứ không chỉ đơn thuần là một phương thức đào tạo, và vì thế, nó có thể có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo Đại học từ quan điểm “toàn cục” hơn là từ quan điểm “cục bộ”. 2. NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ CẤU TRÚC CƠ BẢN CỦA HÌNH THỨC ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ 2.1. Chương trình đào tạo theo hình thức tín chỉ Chương trình đào tạo là một trong những vấn đề cốt lõi của quá trình đào tạo đại học. Có thể nói, tất cả các trường đại học có uy tín trên thế giới đều đã dày công nghiên cứu và xây dựng cho mình một chương trình đào tạo riêng và chương trình đào tạo cũng đã thực sự trở thành một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá xếp loại các trường đại học (ĐH). Thế nhưng, việc thiết kế một Chương trình đào tạo như vậy lại là tích hợp của rất nhiều nhân tố: đáp ứng quan điểm giáo dục, đáp ứng chuẩn đào tạo sinh viên, đáp ứng chuẩn nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội và của nền kinh tế, tuân thủ các dự báo về nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao,v.v. Vậy đâu là những quan điểm nền tảng khi thiết kế chương trình đào tạo đại học? - Thực tế cho thấy khoa học và công nghệ phát triển rất nhanh, những gì sinh viên học được trong bốn năm ở trường ĐH chỉ là những phần cơ sở nhập môn của các chuyên ngành học mà thôi. Vì vậy, điều đặc biệt quan trọng là phải làm sao để sinh viên xác định được rằng những kiến thức học được ở trường chỉ là phần mở đầu. Nhưng đó là phần mở đầu rất quan trọng, chuẩn bị cho họ kiến thức và kĩ năng để tiếp tục học suốt chặng đường tiếp theo, ngay từ những ngày tháng đầu tiên rời ghế nhà trường để đi vào cuộc sống. Chương trình đào tạo không nên quá nặng nề để khuyến khích sinh viên tự học, tự nghiên 70 cứu và biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. - Thay vì tham vọng nhồi nhét các kiến thức chuyên ngành, điều có ích hơn là đạt được một sự cân bằng nào đó giữa học chuyên ngành và kĩ năng thích ứng với cuộc sống. Chẳng hạn như: rèn luyện cho sinh viên những kĩ năng phân tích, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng trình bày, truyền đạt thông tin, các kĩ năng mềm về các lĩnh vực làm việc độc lập cũng như làm theo nhóm, hợp tác tốt với đồng nghiệp, tâm lí học, v.v. - Yêu cầu “đào tạo theo nhu cầu xã hội” là chính đáng, nhất là trong điều kiện Việt Nam; chúng ta còn quá nghèo để có thể cho phép mình lãng phí, đào tạo sinh viên ra rồi không sử dụng được vào mục đích gì. Điều này đặc biệt quan trọng đối với hệ thống các trường Đại học sư phạm. Ta hãy lấy ví dụ về đào tạo sinh viên chuyên ngành Toán ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Rõ ràng, nhu cầu tuyển dụng giáo viên Toán THPT ngày càng hạn hẹp do tỉ lệ tăng dân số của chúng ta đã được kiểm soát tốt hơn và tỉ lệ số học sinh/một giáo viên không thể giảm ngay một lúc được. Hơn nữa, số các trường đại học (địa phương) có đào tạo giáo viên toán THPT được thành lập ngày càng nhiều, nên thị phần của Trường Đại học sư phạm Hà Nội trong việc đào tạo giáo viên Toán THPT trên thực tế ngày càng bị thu hẹp. Chúng ta không thể cho phép mình lãng phí đào tạo sinh viên thành giáo viên Toán THPT, để rồi họ không thể kiếm được việc làm như thế. Trong khi đó, nhu cầu về đào tạo bậc cao như: đào tạo cán bộ giảng dạy Toán cho các trường đại học và cao đẳng, đặc biệt là các trường đại học và cao đẳng mới được thành lập; đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ, lại đang là rất lớn, thậm chí đang là đòi hỏi bức thiết của Đảng và Nhà nước đối với Nhà trường chúng ta. Bên cạnh đó, nhu cầu của những ngành kinh tế đòi hỏi nhiều đến Toán học như Toán tài chính, Toán công nghiệp cũng là rất lớn. Theo phát biểu của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ nay đến năm 2020, chúng ta cần khoảng một triệu nhân lực trình độ cao cho ngành Tài chính - Ngân hàng - Thị trường chứng khoán. Sự thay đổi chương trình đào tạo để đáp ứng yêu cầu “đào tạo theo nhu cầu xã hội” là công việc cấp thiết phải làm trong quá trình chuyển đổi sang hệ thống đào tạo theo tín chỉ. Chúng ta cần hiểu rằng “đào tạo theo nhu cầu xã hội” không có nghĩa là đào tạo theo nhu cầu của một cơ sở sử dụng lao động cụ thể nào, cho dù cơ sở sử dụng lao động đó rất có quy mô và uy tín, mà là cần phải thường xuyên cập nhật giáo trình, chương trình, đổi mới các môn học, ngành học. Đồng thời, phải duy trì mối quan hệ giữa trường ĐH và các cơ sở sử dụng lao động thông qua hợp tác trong đào tạo và nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho sinh viên thực tập và tìm việc làm, v.v. Thông qua những mối quan hệ trường ĐH và cơ sở sử dụng lao động như thế, có thể tìm thấy những kĩ năng nào là quan trọng nhất, cần thiết nhất trong quá trình hội nhập của sinh viên vào cuộc sống, để trên cơ sở đó thiết kế những chương trình đào tạo sao cho sau khi tốt nghiệp sinh viên dễ thích nghi với các điều kiện làm việc khác nhau. 2.2. Phân loại kiến thức trong Chương trình đào tạo theo hình thức tín chỉ ở Mĩ Chương trình đào tạo theo hình thức tín chỉ ở châu Âu và nhiều nước khác chủ yếu bao gồm các tín chỉ về kiến thức chuyên ngành. 71 Khác biệt căn bản với Chương trình đào tạo theo hình thức tín chỉ ở các nước đó, tín chỉ trong Chương trình đào tạo theo hình thức tín chỉ ở các trường đại học của Mĩ được chia ra làm hai loại: Tín chỉ về kiến thức rộng (general education requirement) và tín chỉ về kiến thức chuyên ngành. Hệ tín chỉ ở Mĩ cho phép sinh viên được tự do lựa chọn môn học theo ý thích của mình nhưng phải tuân theo những quy tắc nhất định, tức là phải thoả mãn các yêu cầu của giáo dục kiến thức rộng và các yêu cầu của chuyên ngành. Cụ thể, sinh viên phải chọn từ 25%-35% phân phối tương đối đều trong các lĩnh vực toán, ngôn ngữ, khoa học tự nhiên, văn học nghệ thuật, khoa học xã hội, của chương trình giáo dục kiến thức rộng, và 35%-50% trong các lĩnh vực chuyên ngành, số còn lại được chọn tự do không ràng buộc. Do khái niệm tín chỉ về kiến thức chuyên ngành được hiểu khá đồng nhất giữa các trường đại học trên thế giới, nên để bạn đọc hiểu rõ hơn khái niệm tín chỉ về kiến thức rộng, chúng tôi sẽ trích dẫn lại ở đây những trình bày trong [2] về yêu cầu tối thiểu đối với kiến thức rộng ở các trường đại học của Mĩ . Kiến thức rộng được định nghĩa ở đây không phải là được học một số những pho sách kinh điển cụ thể nào, hay tiếp thụ được những thông tin về những lĩnh vực cụ thể nào, mà là tìm hiểu các giá trị văn hoá khác nhau thông qua các lĩnh vực kiến thức được phân phối trong nhiều lĩnh vực, các phương pháp nghiên cứu khác nhau được áp dụng cho các lĩnh vực đó như thế nào và giá trị của các phương pháp đó. Yêu cầu về kiến thức rộng đó được cụ thể hoá trong các chương trình giáo dục kiến thức rộng (general education program). Ví dụ, ở Đại học Ohio, chương trình giáo dục kiến thức rộng bao gồm 3 nhóm các môn học gọi là Tier I, Tier II và Tier III. Tier I bao gồm những môn về kĩ năng tính toán và tiếng Anh (tiếng Anh cho tất cả các sinh viên, kể cả sinh viên Mĩ). Sinh viên phải học 1 môn toán (đại số sơ cấp, lượng giác,) và 2 môn tiếng Anh (viết tiểu luận) trong nhóm Tier I. Tier II là nhóm các môn kiến thức rộng thật sự, được phân bổ trong 5 lĩnh vực: Khoa học ứng dụng và Công nghệ, tầm nhìn văn hoá đa dạng (cross cultural perspective), nghệ thuật và nhân văn (humanities and fine arts), khoa học tự nhiên và toán học, khoa học xã hội. Sinh viên phải lấy được tổng cộng 30 tín chỉ trong nhóm Tier II, trong đó phải thuộc ít nhất là 4 trong 5 lĩnh vực kể trên, mỗi lĩnh vực không ít hơn 4 tín chỉ nhưng không nhiều hơn 12 tín chỉ. Tier III bao gồm những môn học mà đòi hỏi các phương pháp tiếp cận khác nhau, từ các khía cạnh khác nhau, với các loại kiến thức khác nhau, đến cùng một vấn đề. Sinh viên phải chọn 1 môn trong nhóm Tier III và chỉ các sinh viên năm cuối mới được đăng kí các môn trong nhóm này. Tổng khối lượng các môn học của chương trình giáo dục kiến thức rộng ở Đại học Ohio chiếm khoảng 1/4 trong tổng số các tín chỉ cần có để tốt nghiệp. Như đã nói ở trên, hầu hết các trường đại học ở châu Âu và nhiều nước khác không có yêu cầu về giáo dục kiến thức rộng trong chương trình đại học. Họ cho rằng sở dĩ ở Mĩ phải có yêu cầu giáo dục kiến thức rộng là vì giáo dục phổ thông ở Mĩ chất lượng kém, do đó sinh viên đại học phải mất một năm để học lại các kiến thức phổ thông. Những ý kiến đó có những cơ sở nhất định, nhưng không hoàn toàn đúng, vì yêu cầu về kiến thức rộng tồn tại ở tất cả 72 các trường đại học ở Mĩ, kể cả những trường lớn như Harvard, và nó phản ánh một triết lí của giáo dục đại học hơn là một cách sửa chữa những khiếm khuyết của giáo dục phổ thông ở Mĩ. Ví dụ, chương trình kiến thức rộng ở ĐH Harvard, được gọi là chương trình lõi (core curriculum), cũng chiếm khoảng 1/4 khối lượng các môn học mà một SV phải học để tốt nghiệp, và bao gồm các môn trong những lĩnh vực: Văn hoá nước ngoài, Lịch sử, Văn học và Nghệ thuật, Luận đạo đức (moral reasoning), Luận tính toán (quantitative reasoning), Khoa học và Phân tích xã hội. Cụ thể, một sinh viên ở Đại học Harvard phải học tối thiểu 32 môn học tương đương với 32 half-courses để tốt nghiệp (tương đương với 32 x 4 = 128 tín chỉ của các trường đại học khác ở Mĩ), trong đó khoảng 1/2 các môn để thoả mãn yêu cầu chuyên ngành, khoảng 1/4 các môn để thoả mãn các yêu cầu về chương trình giáo dục kiến thức rộng (chương trình lõi), còn lại là những môn được hoàn toàn tự chọn theo ý thích hoặc để thoả mãn yêu cầu của chuyên ngành thứ yếu (minor). 2.3. Tổ chức xây dựng Chương trình đào tạo theo hình thức tín chỉ Chương trình học theo hệ tín chỉ không chỉ đơn thuần là một bản danh sách liệt kê các môn học, mà phải là một quyển niên giám của trường đại học đó với đầy đủ chức năng, để làm sao mỗi sinh viên đều có thể tìm thấy ở đó đầy đủ thông tin về các môn học, về các yêu cầu để được nhập học, đăng kí học các môn, đăng kí chuyên ngành và tốt nghiệp, v.v. Cụ thể hơn, Chương trình học theo hệ tín chỉ phải thoả mãn các yêu cầu sau: - Mỗi một môn học đều phải có tên môn học, mã số, số tín chỉ, nội dung tóm tắt và yêu cầu tiên quyết. - Phải có quy định cụ thể về chương trình giáo dục kiến thức rộng và danh sách những môn nằm trong chương trình này. - Phải có quy định cụ thể về yêu cầu của các trường con và các khoa, danh sách các chuyên ngành của các khoa (tên và mã số của từng chuyên ngành), và các yêu cầu cụ thể của từng chuyên ngành (số tín chỉ cần phải học về chuyên ngành, danh sách của các môn có thể lựa chọn, các hạn chế, một số lựa chọn mẫu để sinh viên tham khảo,v.v). Xây dựng chương trình là một công việc lớn và phải huy động rộng rãi các giảng viên trong trường tham gia. Từ việc tập hợp lại các môn hiện nay đang dạy, cấp cho mỗi môn một mã số hợp lí, viết một giới thiệu tóm tắt (không quá 200 chữ) cho từng môn, quy định yêu cầu tiên quyết, số tín chỉ v.v. đến việc cần phải thiết kế thêm một số môn học bổ sung phục vụ cho hệ tín chỉ, cung cấp thêm cho các chương trình chuyên ngành và đặc biệt là cho các chương trình giáo dục kiến thức rộng để sinh viên thực sự được lựa chọn, cho dù còn là một lựa chọn hạn chế. Các trường nên khuyến khích giảng viên đề xuất các môn học mới. Giảng viên nào cũng có quyền đề xuất môn học mới. Nên có những quy định chi tiết về các thủ tục phải làm theo các mẫu có sẵn dành cho giảng viên muốn đề xuất một môn học mới, trong đó có tên gọi và mã số của môn học, nội dung tóm tắt, sách giáo khoa sẽ sử dụng (nếu có), v.v. Nếu môn học được thông qua, nó sẽ được bổ sung vào chương trình học. Tùy theo nhu cầu của sinh viên cũng như quyết định của trưởng khoa, nó có thể được dạy cho sinh viên. Mặt khác, nếu một môn học nào quá lâu không được dạy, và trường cũng không còn giảng viên có thể dạy được môn đó nữa, thì các tiểu ban về chương 73 trình học của các khoa có thể đề nghị bỏ môn đó ra khỏi chương trình học. Để cho công việc tiến hành có hiệu quả, đúng tiến độ, mỗi trường đại học phải có một hội đồng chương trình phụ trách chung việc xây dựng các chương trình học. Trong hội đồng chương trình, cần có các ban phụ trách chương trình giáo dục kiến thức rộng (nếu chúng ta đặt ra nó) và các chương trình chuyên môn, và mỗi trường con, mỗi khoa phải có các ban xây dựng các chương trình chuyên môn. Xây dựng các chương trình học phải là công việc chung của đội ngũ giảng viên của toàn trường. Các ban nói trên có trách nhiệm tổ chức, phân công công việc đến các nhóm giảng viên để xây dựng các chương trình học, chứ họ không phải trực tiếp làm công việc này. Ở Mĩ, hàng năm các trường đại học đều có các niên giám chương trình học cử nhân và cao học (undergraduate catalog and graduate catalog). Các niên giám này đều được in ra phát cho sinh viên và được đăng trên website của trường. Trong các niên giám, tất cả các môn học trong trường được liệt kê đầy đủ, kèm theo các mã (code) của các môn học, các mô tả ngắn gọn về nội dung, các yêu cầu tiên quyết (prerequisite). Cũng trong niên giám này, sinh viên có thể tìm thấy các hướng dẫn chi tiết về các yêu cầu chung của toàn trường, các yêu cầu riêng của từng trường con và từng khoa, các yêu cầu riêng về chương trình giáo dục kiến thức rộng của các loại văn bằng (degrees) và các chương trình chuyên ngành (majors). Thông thường, mỗi môn học có một mã (code) của môn học đó. Phần đầu của mã là phần chữ, cho biết khoa hoặc ngành của môn học phần tiếp theo là phần số để phân biệt các môn học khác nhau, trong đó số thứ nhất cho biết mức độ (level) của môn học. Các môn có mã số từ 101 đến 499 là của chương trình cử nhân, các môn từ 101 đến 199 đều có mức 1 (nói chung không nhất thiết số cao hơn nghĩa là mức cao hơn, bởi vì chỉ có số đầu tiên là số đánh dấu mức, còn các số tiếp theo chỉ dùng để phân biệt môn này với môn khác). Nếu môn học là một phần của một chuỗi kéo dài 2 học kì trở lên, thì sau phần số còn có thể có phần chữ để cho biết môn học đó nằm ở đâu trong chuỗi. Ví dụ, MATH263A là mã của môn tính vi tích phân (calculus). Phần chữ đầu (MATH) cho biết đây là môn Toán (mathematics), phần 263 chỉ rằng môn này có mức độ 2. Việc mã hoá các môn học nói chung tùy thuộc từng trường, nhưng phương pháp nêu trên là phổ biến nhất. Ví dụ, yêu cầu chuyên ngành của văn bằng cử nhân khoa học sinh vật ở Đại học Ohio là sinh viên phải học ít nhất 54 tín chỉ về ngành sinh vật (các môn có mã bắt đầu bằng BIOS), trong đó ít nhất có 3 môn ở mức độ 300-400. Ngoài ra, có một danh sách nhỏ những môn bắt buộc trong nhóm các môn khoa học tự nhiên và toán học đối với tất cả các sinh viên ngành sinh vật (gồm 4 môn sinh vật, 2 môn hoá học, 2 môn toán, 1 môn thống kê và 1 môn vật lí). Còn chuyên ngành sinh vật tế bào và phân tử (tên gọi: cellular and molecular biology, mã: BS2520) thì lại có những yêu cầu riêng cụ thể hơn. Nói chung, niên giám có thể thay đổi hàng năm, như thêm các môn học mới, bỏ các môn không còn phù hợp nữa, thay đổi yêu cầu giáo dục kiến thức rộng hay yêu cầu của các chương trình chuyên ngành. Các trường thường có quy định về niên giám nhập học (catalog of entry) của sinh viên. Theo định nghĩa, quyển niên giám của năm có học kì đầu tiên mà một sinh 74 viên đăng kí học được gọi là niê
Tài liệu liên quan