Tóm tắt
Cho đến nay vẫn có những quan điểm khác nhau về mối tương quan giữa các vị thánh trong đạo
Công giáo với văn hóa, tâm thức người Việt. Nghiên cứu này được thực hiện để xác nhận giả định rằng
văn hóa truyền thống của người Việt đã ảnh hưởng và làm thay đổi quan niệm của người Việt Công
giáo về các vị thánh trong đạo. Trên cơ sở những nghiên cứu thực tế và kế thừa kết quả nghiên cứu của
những tác giả khác, chúng tôi thấy rằng truyền thống trọng Mẫu đã ảnh hưởng đến quan niệm của
người Việt Công giáo về Đức Maria với những đặc điểm như sự che chở, ban ơn và bảo trợ cho sự sinh
sôi nảy nở; còn thánh Quan Thầy của xứ đạo cũng giống như Thành hoàng làng, đều có vai trò quan
trọng đối với cộng đồng làng, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Sự giao thoa văn hóa này có nguồn
gốc sâu xa từ chính “bản chất Việt” của người Công giáo Việt Nam.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dấu ấn văn hóa truyền thống trong quan niệm của người công giáo Việt về các vị thánh công giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 25 - Tháng 9 - 201824
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1. Đặt vấn đề
Xuất phát từ những tri thức từ khá xa xưa, cho đến nay, nhiều người vẫn cho rằng Công giáo là một tôn
giáo phương Tây, do đó, quá xa lạ với văn hóa
Việt Nam, trong đó có ý kiến cho rằng ngay
cả những vị thánh trong đạo Công giáo cũng
không gần gũi với văn hóa, tâm thức người
Việt.
Để làm thay đổi quan điểm này, đã có
những nghiên cứu chỉ ra rằng, quan niệm về
Chúa Trời của người Công giáo có nhiều điểm
gần gũi với quan niệm về Trời, Ông Trời trong
văn hóa tâm linh người Việt. Tuy nhiên, chừng
đó là chưa đủ căn cứ để giải thích một cách rõ
ràng cho những thắc mắc về sự liên quan giữa
các vị thánh Công giáo với tâm thức truyền
thống người Việt.
Chúng tôi đưa ra giả thuyết: Mặc dù đến
từ một tôn giáo xa xôi, nhưng thông qua tâm
tư, tình cảm của người tín hữu Việt, những vị
thánh trong đạo Công giáo đã mặc lấy hình hài
và vị thế của những vị thần thánh vốn đã quen
trong tâm thức người Việt. Nghiên cứu này
được thực hiện để kiểm tra giả thuyết thông
qua việc chỉ ra và phân tích những dấu ấn
của truyền thống trọng Mẫu và tục thờ Thành
hoàng làng trong quan niệm cũng như hành vi
DẤU ẤN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
TRONG QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO VIỆT
VỀ CÁC VỊ THÁNH CÔNG GIÁO
VŨ VĂN ĐẠT
Tóm tắt
Cho đến nay vẫn có những quan điểm khác nhau về mối tương quan giữa các vị thánh trong đạo
Công giáo với văn hóa, tâm thức người Việt. Nghiên cứu này được thực hiện để xác nhận giả định rằng
văn hóa truyền thống của người Việt đã ảnh hưởng và làm thay đổi quan niệm của người Việt Công
giáo về các vị thánh trong đạo. Trên cơ sở những nghiên cứu thực tế và kế thừa kết quả nghiên cứu của
những tác giả khác, chúng tôi thấy rằng truyền thống trọng Mẫu đã ảnh hưởng đến quan niệm của
người Việt Công giáo về Đức Maria với những đặc điểm như sự che chở, ban ơn và bảo trợ cho sự sinh
sôi nảy nở; còn thánh Quan Thầy của xứ đạo cũng giống như Thành hoàng làng, đều có vai trò quan
trọng đối với cộng đồng làng, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Sự giao thoa văn hóa này có nguồn
gốc sâu xa từ chính “bản chất Việt” của người Công giáo Việt Nam.
Từ khóa: Công giáo Việt Nam, các thánh Công giáo, hội nhập văn hóa
Abstract
So far, there are different views on the relationship between Catholic saints and Vietnamese culture.
This study is to confirm the assumption that Vietnamese traditional culture have influenced and made
changes the Vietnamese Catholics’ conception of Catholic saints. Based on the actual researches and
inheritance of other authors’ researches, we have found that the Mother Goddess worship tradition
influenced the Viet Catholics’ view of Mary with the characteristics as: protection, blessing and
patronage for procreation. Patron Saint of the parish is like the god of the village, which is important to
the village community, the spiritual support of the villagers. This cultural integration is deeply rooted in
the “Vietnamese nature” of Vietnamese Catholics in Vietnam.
Keywords: Vietnamese Catholic, Catholic saints, cultural integration
25Số 25 - Tháng 9 - 2018
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thờ cúng của người Công giáo Việt đối với Đức
Maria và thánh Quan Thầy.
Bài viết này là một nội dung trong nghiên
cứu của chúng tôi về sự hội nhập văn hóa dân
tộc của Công giáo Việt Nam. Bên cạnh sự kế
thừa những nghiên cứu của các tác giả khác,
công trình là kết quả nghiên cứu thực địa tại
một số xứ đạo ở tỉnh Nam Định năm 2017. Các
phương pháp nghiên cứu được vận dụng bao
gồm quan sát, quan sát tham dự (để thấy được
bối cảnh cũng như những hành vi tôn giáo của
người dân), phỏng vấn sâu (để hiểu tâm tư, suy
nghĩ của giáo dân và ý nghĩa các hành vi tôn
giáo của họ).
2. Dấu ấn của truyền thống trọng Mẫu trong
quan niệm của người Công giáo Việt về Đức
Maria
Truyền thống trọng Mẫu của người Việt thể
hiện rõ nét trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Đây là
một tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ rất sớm
và có vai trò quan trọng trong đời sống văn
hóa tâm linh của người Việt. Trên cả nước có
khoảng 1.000 di tích văn hóa thì có đến 250 di
tích thờ cúng các vị thần là nữ. Trong 27 vị thần
tiên có nguồn gốc thuần Việt thì 17 vị là tiên nữ
(3). Tín ngưỡng thờ Mẫu là một hình thức thờ
cúng người mẹ hóa thân ở các miền trời (Mẫu
Thượng Thiên), đất (Mẫu Địa), sông nước (Mẫu
Thoải), rừng núi (Mẫu Thượng Ngàn), Ngoài
ra, nhân dân ta còn thờ những vị Thái hậu
(như Thái hậu Ỷ Lan), Hoàng hậu (như Hoàng
hậu Bạch Ngọc), Công chúa (như Công chúa
Liễu Hạnh), là những người mẹ có công với
dân, với nước ngay cả khi còn sống cũng như
sau khi đã quy tiên, trở thành những vị thánh
thần linh ứng. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín
ngưỡng bản địa Việt Nam, lấy việc tôn thờ
Mẫu (Mẹ) làm biểu tượng với các quyền năng
như che chở, ban ơn và bảo trợ cho sự sinh sôi
nảy nở. Tín ngưỡng này phản ánh khát vọng
cũng như niềm tin mãnh liệt của người Việt
đối với quyền lực, năng lực thiêng liêng che
chở cuộc sống bình yên, mưa thuận gió hoà,
mùa màng tốt tươi, thoát khỏi thiên tai, địch
hoạ... Với những giá trị văn hóa tâm linh đặc
sắc, “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ
của người Việt” đã được UNESCO công nhận là
“Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại” năm 2017.
Do mang trong mình tâm thức coi trọng
Mẫu, nên khi tiếp nhận các tôn giáo từ bên
ngoài, người Việt đã dần cải biến và “nữ tính
hóa” những tôn giáo này. Quan Âm của đạo
Phật từ một nam thần, sang Việt Nam được
chuyển thành nữ; hệ thống Tứ pháp (Lôi, Vũ,
Vân, Điện) cũng là các nữ thần. Khi Công giáo
vào Việt Nam, Đức Maria - một thánh nữ cũng
được các tín hữu sùng kính đặc biệt.
Đa phần mọi người đều biết rằng, Đức
Maria là một vị thánh rất được người Công
giáo, đặc biệt là người Công giáo Việt Nam
coi trọng. Người Công giáo sử dụng rất nhiều
danh xưng hoa mỹ để nói về Đức Maria như:
Đức Mẹ, Đức Nữ Vương, Nữ Vương Thiên Đàng,
Nữ Vương Ban Sự Bình An, Trinh Nữ Rất Thánh,
Mẹ Hằng Cứu Giúp, Trong niềm tin Công
giáo, Đức Maria đã mang thai một cách màu
nhiệm (do quyền năng Thiên Chúa) và sinh ra
Chúa Giêsu, do đó, Đức Maria được tôn vinh là
Mẹ Thiên Chúa, cũng là Mẹ của Giáo hội Công
giáo toàn cầu. Ngoài ra, Đức Maria còn được
tôn vinh với các danh hiệu cao quý khác như:
Trọn Đời Đồng Trinh, Vô Nhiễm Nguyên Tội và
Hồn Xác Lên Trời.
Khi Công giáo du nhập vào Việt Nam, Đức
Maria được giáo dân gọi với những danh xưng
rất quen thuộc như Thánh Mẫu, Đức Bà,... Bên
cạnh đó, phần lớn những nữ giáo dân ở Việt
Nam lấy tên thánh là Maria. Hầu như trong gia
đình Công giáo nào cũng trưng bày ảnh hoặc
tượng Đức Maria với nhiều hình hài, phong
cách khác nhau. Bức ảnh mà người Công giáo
hay lựa chọn để trưng bày nhất là ảnh Đức Mẹ
Hằng Cứu Giúp - một biểu tượng nghệ thuật,
tôn giáo nổi tiếng có từ thế kỷ XV. Ở các nhà
thờ/thánh đường Công giáo, không khó để
nhận thấy hình tượng Đức Maria được đặt ở
nhiều vị trí khác nhau, cả ở trong và ngoài nhà
thờ. Ở nhà thờ giáo xứ Bình Hải (xã Nghĩa Phú,
huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định ), trên khu
Số 25 - Tháng 9 - 201826
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
vực gian thánh, tượng Đức Maria cũng được
đặt đứng bên phải tượng Chúa Giêsu, bên trái
là tượng ông Thánh Giuse. Ở bên cánh gà có
một tòa đặt ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Bên
ngoài nhà thờ, nơi có một cây si cổ thụ rất lớn,
người ta làm một núi đá và đặt tượng Đức
Maria lên trên đó, gọi là Núi đá Đức Mẹ. Tượng
này được làm bằng thạch cao, màu trắng, cao
khoảng 1,2m, thiết kế theo phong cách tượng
Đức Mẹ Lộ Đức đang chắp tay và ngước nhìn
trời. Chân núi là một hồ nước nhỏ và có các
dòng nước chảy xuống. Cuối nhà thờ lại có
một tượng Đức Maria khác: Đó là tượng đài
Nữ Vương Thiên Đàng. Tượng này cao khoảng
1,5m, được đặt trên đài cao 2,5m; trên đầu
tượng có triều thiên 12 ngôi sao, chân đạp lên
đầu con rắn. Sau mỗi thánh lễ cuối tuần, cha
xứ và giáo dân lại ra ngoài núi đá Đức Mẹ hoặc
tượng đài để làm nghi thức xông hương và đọc
kinh cầu nguyện riêng với Mẹ. Sau mỗi buổi
kinh sáng, chiều, giáo dân cũng thường nán lại
nơi tượng đài để đọc kinh. Mặc dù trong thánh
lễ hay mỗi buổi kinh đều có những nghi thức,
kinh cầu dành cho Đức Maria, nhưng đối với
những giáo dân nơi đây có lẽ như thế là chưa
đủ nên người ta thường nán lại để “tâm sự
riêng” với Người.
Thực ra, việc tôn kính Đức Maria khá phổ
biến đối với người Công giáo trên thế giới,
nhưng đối với người Công giáo Việt Nam, việc
tôn kính Đức Maria dường như được nâng
lên một tầm cao hơn. Theo giáo lý Công giáo,
đối với Đức Maria chỉ thể hiện lòng sùng kính
chứ không tôn thờ, nhưng theo cảm nhận của
chúng tôi, những niềm tin và nghi lễ mà người
Công giáo Bình Hải nói riêng, Công giáo Việt
Nam nói chung, dành cho Đức Maria không
khác gì một sự tôn thờ dành cho Thánh Mẫu.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương,
Thánh Mẫu Maria mang đầy đủ những đặc
trưng của một Mẫu, đó là: Che chở, Ban ơn,
Sinh sôi.
Trong khó khăn, gian khổ hay khi gặp
hoạn nạn, các giáo sĩ và giáo dân đều đến
cầu xin Đức Maria che chở, đặc biệt là thời
kỳ đạo Công giáo bị nhà nước phong kiến
Việt Nam ngăn cấm. Theo lịch sử giáo phận
Bùi Chu (Nam Định), vào nửa cuối thế kỷ XIX,
triều đình cấm đạo rất gắt gao, việc truyền
đạo và giữ đạo gặp nhiều khó khăn và thử
thách. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, giám mục
Valentinô Berrio-Ochoa Vinh cùng với một
số giáo sĩ đã cùng nhau tha thiết khấn cùng
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (một tước hiệu
của Đức Maria) rằng: Nếu Đức Maria ban sự
bình an cho giáo phận, thì giáo phận sẽ nhận
Người làm Quan Thầy và sẽ xây một đền thờ
xứng đáng để dâng kính Người. Tương truyền
là lời khấn đã được chấp nhận và sau đó giáo
phận Bùi Chu đã xây đền thờ kính Đức Maria
tại Phú Nhai (nay là Vương Cung Thánh Đường
Phú Nhai, tại xã Xuân Phương, huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Định) và tuyên bố nhận Đức
Maria làm Quan Thầy của giáo phận.
Với niềm tin rằng Đức Maria có thể ban ơn
cho con cái thông qua việc chấp nhận những
lời cầu xin, người Công giáo thường tìm đến
Đức Maria để xin Người ban cho họ được thỏa
mãn những nhu cầu trong cuộc sống hàng
ngày như: xin cho có công ăn việc làm, xin tìm
thấy của đã mất, xin cho được lành bệnh, xin
cho đi đường bình an, xin cho học hành tấn tới
và thành công trong thi cử, Nhìn chung, nhu
cầu con người thì rất nhiều, nhưng như một
điều cấm kỵ, người Công giáo thường chỉ xin
những điều lành mạnh và ở mức độ vừa phải.
Ví dụ như người ta thường không dám xin cho
được trúng đề, trúng số, cũng không dám xin
cho được giàu có mà chỉ cầu xin cho được “hàng
ngày dùng đủ”, tức là không đói khát, khổ sở
quá là được. Tại nhà thờ Bình Hải, mỗi buổi cầu
nguyện có hàng chục người “xin khấn”. Còn tại
Nhà thờ Thái Hà - một trung tâm Công giáo lớn
ở Hà Nội, nơi có Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
- mỗi tuần có tới hàng ngàn người (trong đó
có cả những người không Công giáo) đến để
cầu khấn Đức Mẹ. Bên cạnh những người đến
để xin ơn, cũng có nhiều người đến tạ ơn vì lời
cầu xin của họ đã được đáp ứng. Theo số liệu
chúng tôi thu thập được, trong tuần từ ngày
27Số 25 - Tháng 9 - 2018
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
26/2 đến ngày 4/3/2017 có 6.749 người xin ơn
và 843 người tạ ơn; tuần từ ngày 6/5 đến ngày
12/5/2018 có 3.793 người đến xin ơn và 392
người tạ ơn. Cùng với những lời cầu nguyện
thầm thì, người ta còn ghi những tâm nguyện
của mình vào một cuốn sổ được đặt ở bàn thờ
nơi có linh ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Mỗi
lần xin ơn hay tạ ơn, người ta thường bỏ vào
“hòm khấn” một ít tiền (tùy tâm) để thể hiện
lòng thành của mình.
Đức Maria cũng được xem là người bảo trợ
cho sự sinh sôi, nảy nở. Bên cạnh xin những ơn
về tiền tài danh vọng, những người muộn mằn
về đường con cái đều tìm đến Đức Maria để
“xin cho có con cái”. Người ta tâm niệm rằng,
Đức Maria cũng là mẹ, lại là một người mẹ nhân
từ nên Người rất thấu hiểu tâm tư tình cảm của
những người làm mẹ. Trong thời kỳ mang thai,
nhiều phụ nữ Công giáo rất thích trưng bày
ảnh “Mẹ bồng con” (Đức mẹ bế Chúa Giêsu
hồi thơ ấu) trong nhà, bởi họ tin rằng khi tôn
kính bức ảnh này, họ sẽ được may mắn trong
sinh nở. Ngoài ra, đã từ lâu, người Công giáo,
nhất là ở các vùng quê, có tục “bán con cho
Đức Mẹ”. Với những con trẻ sinh ra khó nuôi,
nhiều gia đình đã đem “bán” con cho Mẹ với
niềm tin rằng Đức Mẹ sẽ quan tâm đặc biệt và
phù hộ, che chở cho bé. Đến khi trẻ 13 tuổi, tức
là khi trẻ đã qua giai đoạn “khó nuôi” thì làm lễ
xin con về. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng
Dương, việc người Công giáo có tục “bán con
cho Đức Mẹ” chính là biểu hiện của hình thức
“bán khoán” trẻ cho đền phủ hoặc cho Phật mà
những người Việt hay làm (1, tr.314).
3. Dấu ấn của tục thờ Thành hoàng làng
trong quan niệm của người Công giáo Việt
về thánh Quan Thầy xứ đạo
Thành hoàng là một biểu tượng cổ xưa có
gốc từ Trung Hoa để chỉ vị thần đại diện cho
một tòa thành lớn có hào bao quanh, vị thần
này được thờ nhằm để bảo vệ cho tòa thành
đó. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng bắt đầu du
nhập vào Việt Nam từ thời nhà Đường (khoảng
thế kỷ thứ IX) rồi phát triển qua các triều đại
phong kiến độc lập của nước ta. Các Thành
hoàng được phong các mỹ tự do có công giúp
dân, giúp nước.
Tuy nhiên, việc thờ vị thần cai quản thành
trì này không sâu đậm và không dài lâu ở các
thành đô ở nước ta. Tín ngưỡng thờ Thành
hoàng bắt đầu lan truyền đến các vùng nông
thôn, nơi tín ngưỡng thờ thần in đậm dấu ấn
trong văn hóa của cư dân nông nghiệp lúa
nước. Thành hoàng được suy tôn là những
vị thần bảo vệ cho cuộc sống của người dân
trong làng, nhất là những nhân vật lịch sử từng
có công tạo lập, phát triển đời sống kinh tế -
văn hóa - xã hội cho làng, nước.
Đối với các làng quê Việt Nam, Thành
hoàng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời
sống cộng đồng làng. Nhà nước phong kiến
Việt Nam chọn lọc và sắc phong cho Thành
hoàng làng nhằm mục đích đoàn kết và động
viên toàn bộ sức mạnh của cộng đồng làng,
xã và dân tộc thành một khối. Và đình làng,
từ một trụ sở hành chính, trở thành nơi thờ
Thành hoàng và là nơi tụ họp dân làng khi có
việc chung, là chốn vui chơi của cả làng vào
các dịp lễ hội. Sự thờ cúng thần Thành hoàng
là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong cộng
đồng làng, xã. Quan trọng hơn, Thành hoàng
đã trở thành một biểu tượng tâm linh, một chỗ
dựa tinh thần vững chắc của người dân, bởi với
họ, thần có thể giúp cho mưa thuận gió hòa,
mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ
ngày một thêm ổn định, thịnh vượng.
Cũng giống như làng Việt cổ truyền, mỗi xứ
đạo - làng Công giáo cũng lựa chọn cho mình
một vị thánh bảo trợ, gọi là thánh Quan Thầy
(còn gọi là thánh bổn mạng hay thánh bảo trợ,
tiếng Latinh là Patronus). Cần nói thêm rằng,
giáo hội Công giáo có hàng trăm vị thánh.
Họ là những người được Giáo hội tôn phong
bởi những đóng góp to lớn của họ trong sự
phát triển của Giáo hội (như các thánh Tông
đồ Chúa Giêsu, thánh Tôma Aquinô, thánh
Augustinô,) hoặc bởi những đóng góp đặc
biệt đối với xã hội (như thánh Têrêsa ở Calcutta
- Ấn Độ). Việc chọn lựa thánh Quan Thầy cho
một xứ đạo do giám mục trong giáo phận
Số 25 - Tháng 9 - 201828
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
quyết định sau khi đã bàn bạc kỹ càng, hoặc
sau một cuộc bỏ phiếu hay qua các đơn thỉnh
nguyện của cộng đoàn giáo dân. Mỗi xứ đạo
chỉ được chọn một thánh Quan Thầy, không có
thánh Quan Thầy thứ hai, hay Quan Thầy phụ.
Như vậy, thánh Quan Thầy không phải là
tên riêng của một vị thánh nào mà là một chức
danh để chỉ vị thánh được chọn để bảo vệ,
hướng dẫn và cầu bầu cho một người (thông
qua lễ rửa tội), một xứ đạo, một dòng tu, một
địa phương (ví dụ như ở Hoa Kỳ có Los Angeles
được đặt theo tên Đức Maria, San Francisco theo
tên thánh Phanxicô, San Jose theo tên thánh
Giuse, San Diego theo tên thánh Điđacô...; ở
Nga có Thành phố St. Petersburg nghĩa là đô
thị của thánh Phêrô,) hoặc thậm chí là một
sự kiện. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến thánh
Quan Thầy của xứ đạo - làng Công giáo.
Cũng giống như cảm thức của người Việt về
các vị Thành hoàng, người Công giáo cũng rất
đề cao vai trò của vị thánh Quan Thầy xứ đạo.
Trong các làng giáo, người ta thường đặt tên
thánh của cá nhân theo tên của vị thánh Quan
Thầy giáo xứ. Ví dụ: Nếu thánh Quan Thầy của
giáo xứ đó là thánh Tôma thì hầu như tất cả
nam giới trong giáo xứ đều lấy tên thánh là
Tôma (ví dụ: Tôma Vũ Văn Nghĩa,). Trong nhà
thờ, bao giờ cũng phải có tượng thánh Quan
Thầy và phải đặt ở nơi trang trọng.
Người Công giáo còn tin rằng, thánh Quan
Thầy có ảnh hưởng rất lớn đến các sự kiện
lớn của cộng đồng xứ đạo. Khi hỏi một người
Công giáo rằng thánh Quan Thầy có phải
Thành hoàng làng không, người ấy dứt khoát
trả lời là không. Nhưng khi hỏi về vai trò của
thánh Quan Thầy, người này cho biết: “Ở đây
chúng tôi rất kính thánh Quan Thầy. Mỗi khi
trong xứ đạo có việc quan trọng như sửa sang
nhà thờ, sửa gác chuông, xây nhà giáo lý, chuẩn
bị tuần Chầu, cha xứ và giáo dân đều hướng lên
thánh Quan Thầy, cầu xin Ngài ban cho được
bình yên, công việc suôn sẻ, không thì không yên
tâm làm gì” (nam, 68 tuổi, từng tham gia Ban
hành giáo tại giáo xứ Bình Hải). Có một thực tế
là: Theo giáo lý Công giáo, chỉ có Thiên Chúa
mới có quyền “ban” cho thứ này thứ khác, còn
các thánh, kể cả Đức Maria, chỉ có thể cầu bầu
(cầu xin, bầu cử) với Chúa cho giáo dân, chứ
không có quyền năng ban phát điều gì cả.
Tuy nhiên, quan niệm này chỉ tồn tại ở những
người thông thạo giáo lý, còn theo cảm thức
bình dân, nhiều người vẫn xem thánh Quan
Thầy như một đấng có quyền năng bảo vệ,
che chở và ban phát ơn lành cho cộng đồng
của họ, giống hệt quan niệm của người Việt về
Thành hoàng làng.
Đối với nhiều làng giáo, ngày lễ kính thánh
Quan Thầy cũng chính là ngày hội làng. Trong
ngày lễ này, người ta thường tổ chức rước kiệu
thánh Quan Thầy rất long trọng. Chúng tôi
đã có dịp theo dõi một cuộc rước kiệu thánh
Quan Thầy ở giáo xứ Bình Hải. Trước khi cuộc
rước bắt đầu, cha chủ tế (linh mục) đến trước
tượng thánh quan thày để thực hiện nghi thức
làm phép tượng và xông hương. Điều này gợi
nhớ đến nghi lễ “phụng nghinh” trước các cuộc
rước thần trong hội làng. Sau đó tượng thánh
Quan Thầy được rước từ trong nhà thờ ra và
đặt cố định trên kiệu vàng (còn gọi là kiệu bát
cống) lúc này đã chờ sẵn ở cuối nhà thờ. Lễ rước
kiệu diễn ra trang nghiêm: đi đầu đoàn rước là
cờ Hội thánh, tiếp theo là đội cầm Thánh giá
và nến cao (nhìn xa giống các đồ “bát bửu”),
tiếp đến là đoàn người đánh chiêng, trống,
đội kèn đồng, đội bát âm, sau đó là các đoàn
hội khác như hội gia trưởng, hội hiền mẫu, hội
dòng ba và đội kiệu. Để tham gia đoàn rước,
trang phục của mỗi người phải lịch sự, đặc biệt
là phụ nữ phải mặc áo dài truyền thống - đây
được coi là trang phục phù hợp nhất với nữ
giới mỗi khi đến nhà thờ. Theo dõi cuộc rước
kiệu thánh Quan Thầy, từ cách sắp xếp đoàn
rước, các đồ lễ, trang phục cho đến các lễ nghi
có nhiều điểm khá giống với đám rước Thành
hoàng làng. Có lẽ điểm cơ bản giúp người ta
phân biệt đám rước thánh Quan Thầy với rước
Thành hoàng làng đó là đám rước này được
diễn ra ở nhà thờ Công giáo chứ không phải
ở đình làng. Trong mỗi dịp lễ kính thánh Quan
Thầy, các gia đình thường làm cỗ để thết đãi
anh em bạn bè và những người thân ở xa về
29Số 25 - Tháng 9 - 2018
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tham dự lễ. Điều này phản ánh văn hóa “Lễ