Dạy học Toán cho học sinh tiểu học bằng sỏi và hạt đậu

TÓM TẮT Đồ dùng dạy học Toán trên thế giới ngày càng đa dạng hóa và hướng đến sự phát triển tư duy học sinh. Tại Việt Nam, nhiều giáo viên đã tự thiết kế những đồ dùng dạy học nhưng đa phần theo xu hướng phức tạp hóa mà hiệu quả dạy học lại không cao. Với việc dạy học Toán bằng sỏi và hạt đậu, chúng tôi muốn chứng minh rằngnếu được thiết kế một cách hợp lý, những đồ dùng dạy học Toán đơn giản vẫn có thể giúp học sinh trung bình - yếu và không thích học Toán tiến bộ và dần tìm lại niềm vui trong học tập.

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy học Toán cho học sinh tiểu học bằng sỏi và hạt đậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Năm học 2015 - 2016 243 DẠY HỌC TOÁN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC BẰNG SỎI VÀ HẠT ĐẬU Bùi Nguyễn Bích Thy, Lê Thị Nguyệt, Kiều Anh, Lê Hoàng Phương Quỳnh (Sinh viên năm 3, Khoa Giáo dục Tiểu học) GVDH: ThS Trần Đức Thuận TÓM TẮT Đồ dùng dạy học Toán trên thế giới ngày càng đa dạng hóa và hướng đến sự phát triển tư duy học sinh. Tại Việt Nam, nhiều giáo viên đã tự thiết kế những đồ dùng dạy học nhưng đa phần theo xu hướng phức tạp hóa mà hiệu quả dạy học lại không cao. Với việc dạy học Toán bằng sỏi và hạt đậu, chúng tôi muốn chứng minh rằngnếu được thiết kế một cách hợp lý, những đồ dùng dạy học Toán đơn giản vẫn có thể giúp học sinh trung bình - yếu và không thích học Toán tiến bộ và dần tìm lại niềm vui trong học tập. Từ khóa: học sinh tiểu học, đồ dùng dạy học Toán, dạy học Toán bằng sỏi và hạt đậu. ABSTRACT Mathematics teaching for primary students by pebbleand bean The trend of teaching material and tool in the world is diversified and to develop the thinking of primary students, especially in Maths. In Vietnam, many teachers designed educating aids, but with the style of complicating and lacking of effectiveness. By teaching Maths with pebble and bean, we would like to prove that if the simple teaching aids are sensibly designed, they could help the students who are not good and not favoring to improve and be fun in learning Maths. Keywords: primary students, teaching aids, teaching Maths with pebbles and beans. 1. Đặt vấn đề Theo tác giả Vũ Quốc Chung “Lứa tuổi tiểu học (6-7 tuổi đến 11-12 tuổi) là giai đoạn mới của phát triển tư duy - giai đoạn tư duy cụ thể. Trong một chừng mực nào đó, hành động trên các đồ vật, sự kiện bên ngoài còn là chỗ dựa hay điểm xuất phát cho tư duy” [1]. Do đó, giáo viên nên sử dụng đồ dùng dạy học để giúp học sinh tiếp cận với kiến thức mới của môn Toán, đặc biệt là giai đoạn đầu tiểu học. Tại nhiều nước trên thế giới, đồ dùng dạy học ngày càng được đa dạng hóa và hướng đến sự phát triển tư duy của học sinh, chẳng hạn như Mathlink cubes (Singapore), Numicon (New Zeland), Cuisenaire (Bỉ), Bàn tính (Trung Quốc). Những đồ dùng này không những hỗ trợ tốt cho giáo viên trong việc giảng dạy về so sánh các số; các phép tính cộng, trừ, nhân, chia; phân số; chu vi, diện tích... mà còn giúp học sinh thực hành và rèn luyện các kĩ năng toán học. Ở Việt Nam, đồ dùng dạy học vẫn chưa được đầu tư nghiên cứu theo hướng phát huy tính năng và hiệu quả sử dụng. Hiện tại giáo viên và học sinh vẫn dùng những đồ Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 244 dùng truyền thống như que tính, thẻ số, thẻ dấu trong các giờ học toán, và chủ yếu vào những năm đầu tiểu học. Gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bắt đầu đưa bộ đồ dùng học Toán vào chương trình giảng dạy Toán ở tiểu học nhưng chủ yếu dành cho học sinh thành thị có điều kiện tiếp cận. Ở vùng nông thôn, để giúp tăng hứng thú học tập cho học sinh, nhiều giáo viên tiểu học đã cố gắng tự thiết kế đồ dùng dạy học, nhưng hầu hết đều theo xu hướng phức tạp hóa mà chưa đặt mục tiêu gọn nhẹ, hiệu quả lên đầu. Đôi khi học sinh còn lúng túng khi thao tác với đồ dùng dạy học vì cách sử dụng không đơn giản. Từ việc phân tích những đồ dùng dạy học Toán trong và ngoài nước, chúng tôi thấy rằng dạy học Toán cho học sinh tiểu học nên là những đồ dùng dạy học đơn giản và mang lại hiệu quả dạy học cao. Trong quá trình tìm kiếm, chúng tôi nhận ra sỏi và hạt đậu có thể áp dụng vào dạy học Toán cho học sinh tiểu học một cách hiệu quả, đặc biệt là các học sinh trung bình - yếu. Bên cạnh đó, sỏi và hạt đậu xuất phát từ tự nhiên, rất thích hợp cho việc dạy học ở vùng sâu, vùng xa, những nơi còn thiếu thốn về phương tiện dạy học. Đó cũng chính là những lí do để nhóm chúng tôi chọn đề tài: “Dạy học Toán cho học sinh tiểu học bằng sỏi và hạt đậu”. Thực hiện đề tài này, chúng tôi muốn chứng minh hiệu quả của việc sử dụng sỏi và hạt đậu trong dạy học Toán cho học sinh tiểu học, cụ thể là giúp học sinh trung bình - yếu và không thích học Toán giảm các lỗi sai và tăng dần sự yêu thích, tự tin trong môn Toán. Đồng thời, chúng tôi mong muốn giúp giáo viên ở vùng sâu, vùng xa có những ý tưởng thiết kế đồ dùng học tập mới, sẵn có trong tự nhiên, gần gũi trong cuộc sống thường ngày để học sinh có thể học Toán một cách trực quan, dễ dàng tiếp cận với kiến thức mới. 2. Thiết kế bài dạy và trò chơi học tập Toán bằng sỏi và hạt đậu 2.1. Thiết kế bài dạy bằng sỏi và hạt đậu Cộng, trừ trong phạm vi 10 (Lớp 1): Mục tiêu giúp học sinh hình thành bảng cộng, trừ trong phạm vi 10. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh 10 viên sỏi, một tấm thẻ số 10 và hai vòng tròn nhỏ để trống. Học sinh chia 10 viên sỏi và đặt vào hai vòng tròn nhỏ. Sau đó, viết các phép tính cộng, trừ thích hợp. So sánh các số trong phạm vi 10 (Lớp 1): Mục tiêu giúp học sinh có kĩ năng so sánh đúng các số trong phạm vi 10. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh các viên sỏi với hai màu khác nhau. Học sinh sắp xếp các viên sỏi theo thứ tự tương ứng với nhau và điền dấu thích hợp. Năm học 2015 - 2016 245 Phân tích cấu tạo số có hai chữ số (Lớp 1): Mục tiêu giúp học sinh rèn kĩ năng phân tích cấu tạo các số có hai chữ số. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh các hạt đậu và các que gỗ (trên mỗi que đính 10 hạt đậu). Học sinh lấy hạt đậu, que gỗ tương ứng với số cho trước hoặc đọc số từ các que gỗ và hạt đậu được xếp trên bàn. So sánh số có hai chữ số (Lớp 1):Mục tiêu giúp học sinh rèn kĩ năng so sánh đúng các số có hai chữ số. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh hạt đậu, đĩa đậu (mỗi đĩa có 10 hạt đậu). Học sinh phân tích cấu tạo số và rải hạt đậu, đĩa đậu (1 hạt đậu = 1 đơn vị, 1 đĩa đậu = 1 chục) vào các vòng tròn rồi so sánh. Nhận diện hình học (Lớp 1): Mục tiêu giúp học sinh nhận diện đúng hình vuông, hình tròn, hình tam giác. Cách tiến hành: học sinh xếp các hạt đậu thành hình vuông, hình tròn, hình tam giác. Sau đó, học sinh tự sáng tạo xếp thành những hình tùy thích từ hình tam giác, hình vuông, hình tròn ban đầu. Giải toán có lời văn (Lớp 1): Mục tiêu giúp học sinh viết đúng phép tính giải khi bước đầu làm quen với giải toán có lời văn. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh các hạt đậu ngự. Học sinh đọc bài toán, mô hình hóa bài toán bằng hạt đậu, thao tác với hạt đậuđể viết phép tính giải thích hợp. Tìm x (Lớp 2): Mục tiêu giúp học sinh tự rút ra quy tắc tìm x. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh các viên sỏi và hạt đậu. Học sinh đặt số lượng sỏi hoặc hạt đậu tương ứng với các số đã biết và phân tích để tìm được giá trị x, từ đó rút ra quy tắc. Cộng, trừ có nhớ (Lớp 2): Mục tiêu giúp học sinh tính đúng cộng, trừ có nhớ. Cách tiến hành: giáo viên phát các ống nhựa trong và các hạt đậu. Học sinh xếp đậu vào ống nhựa trong (gồm 10 hạt đậu) và các hạt đậu lẻ đúng với phép tính cần làm. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 246 Đơn vị, chục, trăm (Lớp 2): Mục tiêu giúp học sinh biết 10 đơn vị = 1 chục, 10 chục = 1 trăm. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh hạt đậu lẻ, đĩa đậu (mỗi đĩa có 10 hạt đậu). Học sinh rải đậu vào các vòng tròn. 1 đĩa đậu ở hàng đơn vị thay bằng 1 hạt ở hàng chục, 10 hạt đậu ở hàng chục thay bằng 1 hạt ở hàng trăm Thống kê (Lớp 3): Mục tiêu giúp học sinh rèn kĩ năng đếm, thống kê, xử lí, phân tích số liệu. Cách tiến hành: giáo viên rải đậu khác loại và viên sỏi khác màu một cách ngẫu nhiên. Học sinh thống kê số lượng mỗi loại đậu và số viên sỏi cùng màu viết vào bảng số liệu. Sau đó, phân tích dựa trên số liệu trong bảng. Khái niệm chu vi, diện tích (Lớp 3):Mục tiêu giúp học sinh phân biệt khái niệm chu vi và diện tích. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh các hạt đậu. Học sinh sắp xếp các hạt đậu thành đường bao quanh (chu vi); đường bao quanh và phần bên trong (diện tích). Gam (Lớp 3): Mục tiêu giúp học sinh có kiến thức sử dụng đơn vị gam để đo khối lượng, thực hiện đúng phép tính số học với các số đo đại lượng. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh những túi đậu có khối lượng khác nhau. Sau đó, giáo viên đưa ra yêu cầu để học sinh kiểm tra sự bằng nhau và thêm bớt khối lượng đậu sao cho hai bên cân thăng bằng. Phân số (Lớp 4): Mục tiêu giúp học sinh hình thành biểu tượng phân số. Cách tiến hành: giáo viên đặt hạt đậu lên một hoặc nhiều phần trên que gỗ. Học sinh viết phân số thể hiện số phần có đậu chiếm mấy phần mấy của số phần trên que gỗ và số phần không có đậu chiếm mấy phần mấy của số phần trên que gỗ. Tỉ số (Lớp 4): Mục tiêu giúp học sinh hình thành biểu tượng tỉ số và viết đúng tỉ số của hai số. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh các que gỗ (ở hai đầu của que gỗ có đính hai loại đậu khác nhau). Học sinh viết tỉ số của hai loại đậu trên các que gỗ. Năm học 2015 - 2016 247 2.2. Thiết kế trò chơi học tập bằng sỏi và hạt đậu Trò chơi “Những viên sỏi số diệu kì”: Mục tiêu giúp học sinh rèn kĩ năng tính cộng, trừ trong phạm vi 10. Luật chơi:bốc thăm một tấm thẻ, người chơi tìm các viên sỏi ghép thành phép tính có kết quả là con số trong tấm thẻ. Bạn nào ghép thành phép tính đúng và nhanh nhất thì được 1 điểm. Bạn nào đạt 10 điểm là thắng. Trò chơi “Khắc nhập, khắc nhập”: Mục tiêu giúp học sinh rèn kĩ năng tính cộng, trừ trong phạm vi 10. Luật chơi: lần lượt mỗi người chơi chọn que gỗ có phép tính hoặc số hạt đậu thích hợp để xếp liền kề với một trong hai đầu que gỗ. Người chiến thắng là người hết que gỗ trước. Trò chơi “Đố bạn”: Mục tiêu giúp học sinh đọc đúng tỉ số của hai số nhanh và chính xác. Luật chơi: lần lượt mỗi học sinh bốc 2 viên sỏi, các bạn còn lại đập tay xuống bàn, ai nhanh hơn sẽ nói tỉ số của hai số. Nếu nói đúng thì được lấy 2 viên sỏi đó. Trò chơi kết thúc khi số lượng sỏi trên bàn ít hơn 2 viên. Người chiến thắng là người có số lượng sỏi nhiều nhất. 3. Thực nghiệm dạy học Toán cho học sinh tiểu học bằng sỏi và hạt đậu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nhóm học sinh tiểu học từ lớp 1 đến lớp 4 đang học tại Trung tâm Học tập Cộng đồng Bình Chánh, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Tất cả các em đều không thích học Toán, học chậm môn Toán, làm bài tập sai nhiều, điểm thi cuối học kì I trung bình từ 3 - 6 điểm. Chúng tôi chia các học sinh này thành 2 nhóm ngẫu nhiên: Nhóm thực nghiệm (N1): 6 học sinh được học bằng sỏi và hạt đậu. Nhóm đối chứng (N2): 6 học sinh được học bằng hình thức truyền thống. 3.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm chúng tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp quan sát khoa học, phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phương pháp điều tra, phương pháp thực nghiệm khoa học, nhóm các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp. 3.3. Phương tiện nghiên cứu Để chuẩn bị cho việc thực nghiệm dạy học Toán cho học sinh bằng sỏi và hạt đậu, chúng tôi đã chuẩn bị những phương tiện như sau: các loại sỏi và hạt đậu khác Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 248 nhau, đồ dùng dạy học tự thiết kế từ sỏi và hạt đậu, các bài kiểm tra kiến thức, các phiếu thông tin, máy ảnh và điện thoại phục vụ cho việc chụp hình, quay phim. 3.4. Cách thức tiến hành nghiên cứu Ban đầu, chúng tôi tìm hiểu sách, báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề dạy Toán cho học sinh tiểu học bằng sỏi và hạt đậu. Sau đó, chúng tôi thảo luận và đề ra những ý tưởng dạy học môn Toán bằng sỏi, hạt đậu. Thực nghiệm dạy học thử với 4 học sinh có học lực trung bình - yếu môn Toán bằng sỏi và hạt đậu. Sau đó, chúng tôi xem xét hiệu quả và chỉnh sửa kế hoạch dạy học cho phù hợp hơn. Chọn địa điểm thực nghiệm, chọn đối tượng thực nghiệm bằng cách quan sát quá trình học Toán của các học sinh ở lớp và tham khảo ý kiến của giáo viên chủ nhiệm. Khai thác thông tin và kiểm tra kĩ năng Toán học của học sinh bằng phiếu kiểm tra, tìm hiểu những dạng bài học sinh hay sai trong tập học thường ngày của các em và qua ý kiến của giáo viên chủ nhiệm. Nhóm đối chứng học với giáo viên chủ nhiệm theo cách dạy bình thường, nhóm thực nghiệm học với chúng tôi bằng sỏi và hạt đậu. Dạy học Toán bằng sỏi và hạt đậu cho nhóm thực nghiệm trong 1 tháng, mỗi tuần 4 buổi dạy, mỗi buổi khoảng 1 tiếng 15 phút. Quá trình thực nghiệm gồm hai giai đoạn: ở giai đoạn 1, chúng tôi dạy lạinhững dạng bài học sinh thường xuyên sai trước đó bằng sỏi và hạt đậu. Sau đó, tổ chức cho học sinh làm bài kiểm tra để so sánh với điểm số trước khi dạy. Đồng thời, chúng tôi cũng bấm thời gian để đo về tốc độ làm bài giữa hai lần trước và sau thực nghiệm. Ở giai đoạn 2, chúng tôi dạy kiến thức mới cho học sinh nhóm thực nghiệm bằng sỏi và hạt đậu. Cuối mỗi buổi học kiến thức mới, chúng tôi tổ chức cho học sinh làm bài kiểm tra để kiểm chứng hiệu quả của việc dạy học bằng sỏi và hạt đậu. Cuối kì thực nghiệm, tiến hành cho cả hai nhóm làm một bài kiểm tra tổng hợp các kiến thức đã giảng dạy trong suốt quá trình thực nghiệm. Kết hợp với nhật kí giảng dạy và sổ theo dõi học sinh để xử lý, phân tích, giải thích kết quả, đưa ra những kết luận và đề ra những định hướng phát triển đề tài. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Thái độ học Toán của học sinh nhóm thực nghiệm (N1) và nhóm đối chứng (N2) trong và sau quá trình thực nghiệm Năm học 2015 - 2016 249 Biểu đồ 1. Thái độ học Toán của học sinh N1 sau quá trình thực nghiệm (tỉ lệ %) Trước đó, các học sinh được hỏi đều trả lời Không thích học Toán. Cuối quá trình thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả như sau: học sinh trả lời Yêu thích chiếm 40%, Rất yêu thích chiếm 60%. Đây là một tín hiệu tích cực sau quá trình dạy học Toán bằng sỏi và hạt đậu. Các em học sinhđã dần tìm lại niềm vui trong việc học Toán. Khi được hỏi về lí do thích học Toán bằng sỏi và hạt đậu, học sinh nhóm thực nghiệm có các ý kiến như sau: Biểu đồ 2. Ý kiến của học sinh N1 về lí do thích học Toán bằng sỏi và hạt đậu (tỉ lệ %) Dựa vào biểu đồ 2, chúng tôi thấy rằng lí do các em thích học Toán do Đồ dùng học tập bằng sỏi, đậu đẹp chiếm tỉ lệ cao nhất (35.71%), Trò chơi vui chiếm tỉ lệ cao thứ hai (28.57%). Điều này phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và nhận thức của học sinh tiểu học, các em thích thú khi việc học tập kết hợp với trò chơi, vừa học vừa thư giãn, giải trí nên học sinh có tâm thế thoải mái. Hơn nữa, học sinh tiểu học thường bị ấn tượng và chú ý đến màu sắc tươi sáng, sự mới lạ của các đồ dùng bằng sỏi, hạt đậu. Bên cạnh đó, những tỉ lệ ít hơn nhưng chúng tôi đánh giá rất quan trọng, đó là Học bằng sỏi, hạt đậu dễ hiểu (14.29%) và Làm bài đúng nhiều hơn trước (21.43%). Những tỉ lệ này cho thấy học sinh đã bắt đầu nhận thức được sự tiến bộ trong học Toán của bản thân. Sự nhận thức về việc học tập của bản thân chính là động cơ bền vững giúp học sinh cố gắng hơn trong việc học Toán sau này. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 250 Không chỉ nhóm thực nghiệmmà 6 học sinh nhóm đối chứng cũngthể hiện sự quan tâm và thích thú với việc học bằng sỏi, hạt đậu. Các em biểu hiện sự buồn bã khi không được học Toán bằng sỏi và hạt đậu, thường không chú ý vào bài giảng của giáo viên mà tỏ ra tò mò, ngóng sang các bạn nhóm thực nghiệm học và thao tác với các viên sỏi, hạt đậu. 4.2. Kết quả học tập của học sinh nhóm thực nghiệm (N1) sau giai đoạn 1 dạy học Toán bằng sỏi, hạt đậu Biểu đồ 3. So sánh tỉ lệ làm bài đúng của học sinh N1 trước và sau khi thực nghiệm giai đoạn 1 (Tỉ lệ %) Qua biểu đồ 3, ta thấy tỉ lệ làm bài đúng của tất cả học sinh nhóm thực nghiệm đều tăng sau thời gian thực nghiệm. Học sinh làm bài đúng nhiều nhất sau quá trình thực nghiệm là học sinh lớp 1 (86.7%). Học sinh làm bài đúng tăng cao nhất là học sinh lớp 3 (tăng 57.1%). Điều này cho thấy việc học với sỏi, hạt đậu đã đạt hiệu quả, học sinh làm bài đúng hơn, lỗi sai đã giảm đi so với học bằng cách dạy truyền thống. Bảng 1. So sánh tốc độ làm bài của học sinh N1 trước và sau thực nghiệm (đơn vị: phút) V.D (L1) Th.Th (L1) Tr.H (L2) D.Th (L2) Th.Q (L3) Th.S (L4) Trước 12 14 18 12 11 10 Sau 9 8 14 11 16 6 So sánh Nhanh 3 Nhanh 6 Nhanh 4 Nhanh 1 Chậm 5 Nhanh 4 Qua bảng 1, chúng ta thấy tốc độ làm bài của học sinh sau khi thực nghiệm nhanh hơn so với trước khi thực nghiệm từ 1 đến 6 phút. Tốc độ làm bài tăng nhiều nhất là 6 phút. Có một học sinh làm bài chậm hơn so với trước khi thực nghiệm 5 phút, nguyên nhân là do trước thực nghiệm, Th.Q không tập trung làm bài kiểm tra (tỉ lệ làm đúng 2/14 câu). Nhưng sau thực nghiệm, Th.Q đã tập trung làm bài nên mất nhiều thời gian hơn, nhưng số câu đúng đã tăng lên (tỉ lệ làm đúng 10/14 câu). Điều này cho thấy việc Năm học 2015 - 2016 251 sử dụng đồ dùng dạy học bằng sỏi, hạt đậu mang lại hiệu quả nhất định, học sinh vừa làm bài nhanh hơn mà số câu đúng tăng lên so với trước. 4.3. Kết quả học tập của học sinh nhóm thực nghiệm (N1) và nhóm đối chứng (N2) sau giai đoạn 2 dạy học Toán bằng sỏi, hạt đậu Ở cuối kì thực nghiệm, chúng tôi tổ chức cho học sinh N1 và học sinh N2 cùng làm một bài kiểm tra tổng hợp các kiến thức được dạy trong suốt quá trình thực nghiệm. Kết quả như sau: Biểu đồ 4. Tỉ lệ làm bài đúng của học sinh N1 và N2 sau kì thực nghiệm (tỉ lệ %) 72.7 81.8 50 70 63.6 60 36.4 45.5 20 30 36.4 40 0 50 100 NHÓM THỰC NGHIỆM NHÓM ĐỐI CHỨNG Qua biểu đồ 4, ta thấy nhóm đối chứng có tỉ lệ làm bài đúng thấp hơn so với nhóm thực nghiệm và tỉ lệ này chênh lệch khá rõ rệt. Nguyên nhân chính là do học sinh nhóm thực nghiệm được học và thao tác với sỏi, hạt đậu nên nắm vững bản chất kiến thức, đồng thời trong quá trình học các em được chơi trò chơi với sỏi, hạt đậu để rèn kĩ năng tính toán - một trong số kĩ năng mà học sinh còn yếu. Chính vì thế, học sinh thực nghiệm khi làm bài thì có kết quả tốt hơn so với học sinh nhóm đối chứng. Qua đây, chúng tôi thấy rằng việc học với phương tiện sỏi, đậu mang lại hiệu quả. Bảng 2. Tốc độ làm bài của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm (Đơn vị: phút) Nhóm thực nghiệm (N1) Nhóm đối chứng (N2) Tên V.D Th.Th Tr.H D.Th Th.Q Th.S M.D B.A K.Th Th.H H.T H.H Thời gian 11 9 11 10 13 16 15 14 16 17 11 18 Nhìn chung, qua bảng 2, ta thấy nhóm đối chứng có tốc độ làm bài chậm hơn so với nhóm thực nghiệm. Tốc độ chênh lệch cao nhất lên đến 7 phút. Do học sinh nhóm thực nghiệm được thao tác nhiều với sỏi, đậu nên khắc sâu kiến thức, hiểu và được rèn luyện nhiều nên tốc độ làm bài tập nhanh hơn. Trong đó, có 1 học sinh H.T (nhóm đối chứng, lớp 3) có tốc độ làm bài nhanh hơn so với học sinh thực nghiệm (2 phút). Tuy nhiên, về tỉ lệ làm bài đúng của học sinh H.T thì thấp hơn so với học sinh Th.Q nhóm thực nghiệm (thấp hơn 27.2%). Qua đó, ta thấy sự tiến bộ rõ rệt của nhóm học sinh thực nghiệm. Với việc học như thế này, học sinh có nhiều cơ hội được trải nghiệm, tìm tòi, tự khám phá kiến thức bằng đồ học học tập, từ đó hứng thú học tập môn Toán. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 252 5. Kết luận và hướng phát triển đề tài 5.1. Kết luận Học sinh tiểu học hứng thú khi học Toán với sỏi, hạt đậu hơn so với cách dạy truyền thống. Học sinh ban đầu còn lạ lẫm về cách thức tổ chức hoạt động học tập với sỏi và hạt đậu. Nhưng càng ngày các em càng quen dần và thích thú, thậm chí nhiều em tự đưa ra dự đoán, khám phá ra cách thức thao tác với sỏi, hạt đậu khi học một nội dung mới. Khi học Toán với đồ dùng học tập (như sỏi, hạt đậu), học sinh thao tác để tự tìm ra quy tắc, khái niệm, kiến thức mới, từ đó tăng khả năng tư duy, chủ động khám phá tri thức. Cũng chính nhờ vậy mà học sinh trung bình - yếu môn Toán đã có sự tiến bộ: tăng số lượng câu đúng, thời gian làm bài nhanh hơn trước. Điều này cho thấy dạy học Toán bằng sỏi và hạt đậu đạt hiệu quả cao. Trò chơi học tập bằng sỏi, hạt đậu thu hút học sinh, giúp các em ôn lại kiến thức, rèn kĩ năng tính toán trong khôn