Thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học kỹ thuật phát triển không
ngừng.Yêu cầu chủ nhân tương lai của thế kỷ XXI phải là những con người có năng
lực, trí tuệ cao.Để đào tạo những con người đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kỳ
mới, đó là nhiệm vụ của ngành giáo dục, trong đó bậc Tiểu học là bậc học đóng vai trò
làm nền móng. Nghị quyết TW II khoá VIII đã nêu rõ mục tiêu giáo dục tiểu học đến
năm 2020 là “Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học”.Cùng với những môn học
khác, môn Toán ở tiểu học giữ một vị trí hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân
cách, phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Nó trang bị cho học sinh những kiến thức
cần thiết nhằm phụcvụ đời sống và phát triển của xã hội. Môn Toán ở lớp 1 và lớp 2 là
cơ sở ban đầu có tính quyết định cho việc dạy học Toán sau này của học sinh.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền giáo dục, chương trình giáo dục tiểu học
đã thực hiện đổi mới sách giáo khoa và nội dung chương trình dạy học ở các lớp, các
môn học nói chung và môn Toán lớp 2 nói riêng. Năm học này là năm học thứ năm
thực hiện chương trình này. Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Toán, người giáo viên
phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạyhọc, sao cho học sinh là người chủ động
nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành
phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài
học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học.
32 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 9689 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Dạy học toán lớp 2 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề Tài:
Dạy học Toán lớp 2 như thế nào để
đáp ứng yêu cầu đổi mới
Dạy học Toán lớp 2 như thế nào để đáp
ứng yêu cầu đổi mới
A. phần mở đầu
i. lý do chọn chuyên đề
Thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học kỹ thuật phát triển không
ngừng.Yêu cầu chủ nhân tương lai của thế kỷ XXI phải là những con người có năng
lực, trí tuệ cao. Để đào tạo những con người đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kỳ
mới, đó là nhiệm vụ của ngành giáo dục, trong đó bậc Tiểu học là bậc học đóng vai trò
làm nền móng. Nghị quyết TW II khoá VIII đã nêu rõ mục tiêu giáo dục tiểu học đến
năm 2020 là “Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học”.Cùng với những môn học
khác, môn Toán ở tiểu học giữ một vị trí hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân
cách, phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Nó trang bị cho học sinh những kiến thức
cần thiết nhằm phục vụ đời sống và phát triển của xã hội. Môn Toán ở lớp 1 và lớp 2 là
cơ sở ban đầu có tính quyết định cho việc dạy học Toán sau này của học sinh.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền giáo dục, chương trình giáo dục tiểu học
đã thực hiện đổi mới sách giáo khoa và nội dung chương trình dạy học ở các lớp, các
môn học nói chung và môn Toán lớp 2 nói riêng. Năm học này là năm học thứ năm
thực hiện chương trình này. Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Toán, người giáo viên
phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học, sao cho học sinh là người chủ động
nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành
phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài
học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học.
Thực hiện tốt chủ đề năm học: Tiếp tục “ ổn định - phát triển – hội nhập ” trên
cơ sở “Hiện đại -tăng tốc - bền vững” góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung
sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Ban giám hiệu trường tiểu học Đằng Hải đã
chỉ đạo toàn bộ các khối đặc biệt là khối 2 nghiên cứu và thực hiện chuyên đề: “ Dạy
học Toán lớp 2 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới.” Để tìm ra những biện pháp
tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của môn học.
ii. cơ sở lý luận
Trong dạy học Toán ở phổ thông nói chung, ở tiểu học nói riêng thì môn Toán lớp
2 có vị trí vô cùng quan trọng, khi học Toán học sinh phải tư duy một cách tích cực và
linh hoạt huy động tích hợp các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau.
Vì vậy có thể coi việc học Toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hành
động trí tuệ học sinh, cũng qua việc dạy học Toán giáo viên giúp học sinh từng bước phát
triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận lôgic, khêu gợi và tập
dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. Có thể nói : Dạy học toán không chỉ dạy tri
thức và kỹ năng, mà còn hình thành và phát triển ở học sinh phương pháp năng lực sáng
tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Vậy nên, khi giảng dạy giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp dạy học cho
phù hợp với đặc điểm nhận thức của lứa tuổi học sinh, để có những tác động tích cực đến
quá trình lĩnh hội tri thức của trẻ. Tri giác của trẻ em lứa tuổi từ 6 – 8 tuổi thường gắn với
hoạt động. Về tư duy, thì tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế. Do vậy người giáo
viên thường xuyên có biện pháp kích thích học sinh học tập như: khen ngợi, tuyên
dương, thưởng điểm,….tạo hứng thú cho học sinh phát triển ghi nhớ các biểu tượng,
khái niệm kiến thức đến từ cả năm giác quan: thị giác( nhìn), xúc giác(sờ mó), vị
giác(nếm), khứu giác(ngửi), thính giác(nghe) từ đó giúp học sinh tiếp thu tri thức hiểu
bài nhanh, khắc sâu, nhớ lâu kiến thức bài học.
iii. cơ sở thực tiễn
1. Thuận lợi
- Đã qua 5 năm nghiên cứu thay sách giáo khoa và đổi mới nội dung chương
trình, phương pháp dạy học.Học sinh đã làm quen với học Toán qua chương trình học
lớp 1. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, ham học hỏi nên việc tiếp cận với chương trình
mới, với việc đổi mới phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại khá nhanh chóng,
thành thạo.
- Giáo viên được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo
và đặc biệt là đồ dùng dạy học môn Toán lớp 2 khá đầy đủ, đẹp, phong phú về thể loại.
Bộ đồ dùng của giáo viên và học sinh giống nhau, khi sử dụng rất thuận lợi.
-Sự chỉ đạo sâu sát của Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường, chuyên môn
nhà trường có vai trò tích cực giúp giáo viên khối 2 đi đúng chương trình nội dung
môn toán lớp 2.
- Cơ sở vật chất nhà trường được trang bị đầy đủ đặc biệt là đồ dùng dạy học
hiện đại như máy chiếu projecteur, một máy quét….cũng tạo điều kiện thuận lợi giúp
giáo viên, học sinh hoàn thành tốt việc dạy và học.
- Học sinh khối 2 đều được học 2 buổi /ngày. Vì vậy có nhiều thời gian cho việc
luyện tập thực hành ở buổi 2.
- Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng các
môn học nói chung và môn toán nói riêng.
2. Khó khăn
- Giáo viên: Một số giáo viên việc sử dụng đồ dùng dạy học còn hạn chế, có
đồng chí ngại dùng, còn lúng túng, vụng về khi sử dụng, nên hiệu quả tiết dạy chưa cao.
- Học sinh:ở độ tuổi các em dễ tiếp thu nhưng lại chóng quên dẫn đến việc học
tập chưa cao.
Bên cạnh đó còn một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình,
còn có quan điểm “Trăm sự nhờ nhà trường, nhờ cô”cũng làm ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng học tập của học sinh.
Chính vì vậy “ Dạy học Toán lớp 2 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới”
là một vấn đề bức xúc, cần thiết đặt ra đối với mỗi thầy cô giáo và với người quản lý
chỉ đạo. Để giáo viên tự tin trong giảng dạy, học sinh chủ động trong học tập, học sinh
tự tìm kiếm kiến thức mới. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán nói chung
và Toán lớp 2 nói riêng. Đáp ứng yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục, theo kịp sự phát
triển nhanh chóng của xã hội.
Những vấn đề trăn trở và tồn tại trên đây là động cơ thúc đẩy chúng tôi nghiên
cứu thực tế giảng dạy, tìm tòi tham khảo sách báo tạp chí để nghiên cứu chuyên đề:
“ Dạy học Toán lớp 2 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới.”
b. phần nội dung
i. nội dung chương trình môn toán:
1. Về cấu trúc chương trình Toán tiểu học.
- Thu gọn việc dạy số tự nhiên chủ yếu ở lớp 1, 2, 3 :
- Lớp 4 dạy sâu hơn về số tự nhiên, phân số và ôn tập .
- Lớp 5 dùng thời gian chủ yếu học dãy số thập phân với 4 phép tính, tính phần
trăm
- Trên cơ sở dạy số điều chỉnh dạy đại lượng và đo đại lượng, các yếu tố đại số,
giải các bài toán có lời văn, yếu tố thống kê.
- Tiếp tục quán triệt quan điểm của toán học hiện đại trong quá trình dạy học
toán tiểu học. Đặc biệt khi dạy học về số tự nhiên, phân số, số thập phân.
2. Nội dung chương trình Toán 2 trong hệ thống nội dung chương trình dạy
Toán ở Tiểu học .
b. Chương trình:
Lớp 1: 1 tuần 4 tiết x 35 tuần = 140 tiết/ 1 năm học.
Lớp 2, 3, 4, 5: 1 tuần 5 tiết x 35 tuần = 175 tiết/ 1 năm học.
II. Sự cần thiết của việc đổi mới phương pháp dạy học toán 2.
Để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả đào tạo của giáo dục, thì
định hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nói chung và môn Toán
nói riêng, là dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực
chủ động, sáng tạo của học sinh, kết hợp với mặt tích cực của các phương pháp truyền
thống. Song việc vận dụng linh hoạt, phù hợp với phương pháp dạy học là yếu tố quan
trọng quyết định chất lượng giờ dạy. Vì vậy việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy
học Toán 2 phải đảm bảo yêu cầu sau.
+ HS phải tham gia các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, tự tin và
tự nhiên. Tạo cho học sinh tính tự giác, tích cực trong học tập.
+ Giáo viên phải tổ chức hướng dẫn nhẹ nhàng dưới sự trợ giúp đúng mức, đúng
lúc của sách giáo khoa, đồ dùng dạy học Toán, để từng học sinh (từng nhóm học sinh)
tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức và có
thể vận dụng được kiến thức đó vào luyện tập thực hành, giúp cho việc phát triển năng
lực cá nhân học sinh.
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại hoá. Thay thế các phương
pháp dạy học đơn điệu ít tác dụng bằng các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Giúp học sinh
hứng thú trong học tập, hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức.
III. Các phương pháp dạy học toán 2
1. Phương pháp trực quan:
Phương pháp trực quan trong dạy học Toán ở tiểu học nói chung và dạy học
Toán 2 nói riêng là phương pháp đặc biệt quan trọng, phương pháp này đòi hỏi giáo
viên tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động trực tiếp trên các sự vật cụ thể, dựa vào đó
nắm bắt được kiến thức kĩ năng của môn Toán.
Đối với lớp 2 khi sử dụng phương pháp này, học sinh cần phải huy động
các giác quan như tay cầm, mắt nhìn, tai nghe tức là học sinh phải “làm việc bằng tay”
trên các đồ dùng học tập để nhận biết phát hiện kiến thức mới và điều quan trọng là trực
quan phải là các vật thực, tranh ảnh, mô hình hay que tính, quả cam…
Ví dụ:
Khi dạy bài “11 trừ đi một số ” Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng các bó
que tính và que tính rời (hoặc quan sát tranh vẽ trong SGK) để học sinh tự nêu được
chẳng hạn: Có một bó một chục que tính và một que tính, tức là 11 que tính lấy bớt đi 5
que tính thì còn lại mấy que tính? Tức là 11 – 5 = ? Giáo viên hướng dẫn học sinh thực
hiện các thao tác trên que tính, để nêu và làm được chẳng hạn: Để bớt đi 5 que tính, lúc
đầu ta bớt đi một que tính rời (11 – 1 = 10) sau đó, phải tháo bó que tính ra để có 10
que tính rời, lấy bớt tiếp 4 que tính nữa còn lại 6 que tính (10 – 4 = 6). Vậy 11 – 5 = 6.
Học sinh sẽ tìm được kết quả của các phép tính trừ: 11 – 2, 11 – 3, 11 – 4, 11 – 5, 11 –
6, 11 – 7, 11 – 8, 11 – 9. Sau khi học sinh đã tự tìm được kết qủa các phép tính trừ nêu
trên, giáo viên tổ chức cho học sinh ghi nhớ các công thức trong bảng trừ của bài 11 trừ
đi một số.
2. Phương pháp gợi mở vấn đáp:
Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra
những kiến thức hoàn chỉnh mà sử dụng một hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh
suy nghĩ và lần lượt trả lời từng câu hỏi, từng bước tiến dần đến kết luận cần thiết, giúp
học tìm ra những kiến thức mới.
Ví dụ:
Khi dạy bài: Phép nhân
Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi:
+ Mỗi tấm bìa có mâý chấm tròn? ( 2 chấm tròn)
+ Có mấy tấm bìa? ( 5 tấm bìa)
+ Hai chấm tròn được lấy mấy lần (2 chấm tròn được lấy 5 lần).
Học sinh tính được tổng số chấm tròn sau đó nhận xét được 2 được cộng 5 lần
và viết được phép nhân 2 x5 = 10.
Đặc biệt khi sử dụng phương pháp này giờ học sẽ sôi nổi hơn phát huy được khả
năng học tập của từng học sinh, rèn luyện được cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời,
phát triển các năng lực tư duy của học sinh.
Dạy toán 2 còn giúp học sinh nắm chắc các kiến thức và kĩ năng cơ bản nhất,
thông dụng nhất hình thành được phương pháp học tập, đặc biệt là phương pháp tự học.
Thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học. Thường xuyên phải huy
động kiến thức đã học để phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới. Đặt kiến thức mới
trong mối quan hệ với các kiến thức đã học.
Ví dụ: Khi dạy học phép cộng có nhớ trong phạm vi 100 chương trình đã cấu tạo
từng bộ ba các bài học dạng 9 + 5, 49 + 5, 49 + 25 để học sinh vận dụng ngay kiến thức
của tiết học trước trong và các tiết học tiếp liền.
Khi dạy phép trừ có nhớ trong phạm vi 100 mỗi công thức cần ghi nhớ đều được
đặt trong mối quan hệ với các kiến thức đã học.
Chẳng hạn: Với 11 – 9 cần được đặt trong mối quan hệ với phép cộng 9 + 2 =
11, 2 + 9 = 11. Và cách tìm một số hạng khi biết tổng và số hạng kia: 9 = 11 – 2; 2 =
11 – 9. Đồng thời trong quá trình sử dụng các đồ dùng học tập để tìm ra 11 – 9 = 2 học
sinh sử dụng các kiến thức đã học như 11 – 1 = 10; 10 – 8 = 2.
3. Phương pháp giảng giải minh hoạ:
Phương pháp giảng giải minh hoạ trong dạy học Toán là phương pháp dùng lời
nói để giải thích tài liệu Toán, kết hợp các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải
thích.
Tuy nhiên với phương pháp này GV cần nói ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu.
4. Phương pháp thực hành luyện tập:
Phương pháp thực hành luyện tập là phương pháp GV tổ chức cho HS luyện
tập các kiến thức kĩ năng của HS thông qua các hoạt động thực hành luyện tập. Hoạt
động thực hành luyện tập chiếm hơn 50% tổng thời lượng dạy học ở lớp 2. Vì vậy
phương pháp này được sử dụng thường xuyên trong các tiết dạy như học kiến thức
mới, trong các tiết ôn tập, luyện tập. Nhiệm vụ chủ yếu của dạy học thực hành luyện
tập là củng cố kiến thức và kĩ năng cơ bản của chương trình, rèn luyện các năng lực
thực hành, giúp HS nhận ra rằng: học không chỉ để biết mà học còn để làm, để vận
dụng.
Ví dụ: Khi dạy bài: Đường gấp khúc, độ dài đường gấp khúc.
Học sinh luyện tập làm việc cá nhân với bài 1: Nối các điểm để có đường gấp
khúc gồm 2 đoạn thẳng,3 đoạn thẳng. Qua đó giúp học sinh củng cố kiến thức về vẽ
đường gấp khúc có 2 đoạn thẳng từ 3điểm, vẽ đường gấp khúc có 3đoạn thẳng từ
4điểm. Hoặc ở bài 4 HS được thực hành tính độ dài đoạn dây đồng được uốn thành
hình tam giác có 3 cạnh bằng nhau và bằng 4cm. Từ đó các em củng cố và khắc sâu
cách tính độ dài đường gấp khúc với 2 cách:
Cách 1: Làm bằng phép tính cộng 4+4+ 4= 12(cm),
Cách 2: Làm bằng phép tính nhân 4x3= 12(cm) .
Ngoài ra còn mở rộng thêm cho học sinh về đường gấp khúc khép kín.
* Khi dạy thực hành luyện tập cần chú ý:
+ Giúp học sinh nhận ra kiến thức mới học trong sự đa dạng phong phú của các
bài thực hành luyện tập.
+ Giúp học sinh thực hành luyện tập theo khả năng của mình.
+ Tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh.
+ Khuyến khích học sinh tự kiểm tra kết quả thực hành luyện tập
+ Tập cho học sinh thõi quen không thoả mãn bài làm của mình, với cách giải
quyết vấn đề đó, giáo viên không nên “áp đặt”học sinh theo phương án có sẵn, hãy
động viên các em tìm và lựa chọn phương án tốt nhất.
Tóm lại:
Trong dạy học Toán người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và lựa chọn
các phương pháp vào từng hoạt động của các dạng bài học, để hướng dẫn học sinh
tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành hình thành và
rèn luyện kĩ năng Toán học, hướng dẫn học sinh giải Toán, kết hợp việc vận dụng
phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, hay trò chơi Toán học, nhằm đáp ứng
nhu cầu đổi mới trong dạy học Toán 2.
IV / những điểm cần chú ý khi dạy các mạch kiến thức ở toán 2
1. Về số học
Với mục tiêu học tập môn toán ở tiểu học là giúp cho học sinh thành thạo bốn
phép tính số học, là cơ sở phát triển tư duy và vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Vì
vậy mạch kiến thức số học là trọng tâm, là hạt nhân của môn toán tiểu học nói chung và
toán lớp 2 nói riêng.
1.1 Nội dung dạy học các số tự nhiên đến 1000.
a. Mục tiêu:
Sau khi học xong lớp 1, học sinh đã biết đọc, viết, đếm, so sánh các số trong
phạm vi 100.
- Đến lớp 2 vòng số được mở rộng đến 1000. Việc giúp học sinh nắm chắc các
kiến thức về đọc, viết, đếm, so sánh các số được tổ chức qua các giai đoạn như: đơn vị
chục, trăm, đồng thời viết thêm đơn vị nghìn.
- Học sinh nắm được các số tròn trăm, so sánh và thứ tự các số tròn trăm.
- Đọc, viết, so sánh và các số tròn chục, thứ tự các số tròn chục trong phạm vi
200.
- Đọc viết các số có 3 chữ số và so sánh các số có 3 chữ số, tới đây học sinh sẽ
đọc viết và so sánh thành thạo các số trong phạm vi 1000.
- Viết thành tổng các trăm, chục và đơn vị.
b. Phương tiện, đồ dùng dạy học
Việc sử dụng tốt các phương tiện đồ dùng dạy học quan trọng trong việc
đảm bảo thực hiện có hiệu quả phương pháp mới.
- Các mô hình số: đơn vị (ô vuông), chục (thanh hình chữ nhật gồm 10 ô
vuông) trăm (bảng hình vuông gồm 100 ô vuông) dành cho các hoạt động cá nhân của
học sinh. Giáo viên cũng có các mô hình số, giống như học sinh nhưng kích thước gấp
5 lần kích thước bộ đồ dùng của học sinh. Dành cho hoạt động minh hoạ trên bảng của
giáo viên.
- Các mẫu chữ số giành cho giáo viên và học sinh.
- Các tranh vẽ để phục vụ các bài học và luyện tập về số.
c. Cách tiến hành dạy các số đến 1000
Cách tiến hành dạy các số đến 1000 được tiến hành theo 3 bước sau:
+ Bước1: Bắt đầu từ tổ chức các hoạt dộng học tập với các đồ dùng trực
quan(trên các mô hình , hình vẽ cụ thể) , cho học sinh tự làm việc, phát hiện ( với sự hỗ
trợ của giáo viên) . Từ đó hình thành kiến thức mới cho học sinh về các số, quy tắc so
sánh số, các kí hiệu toán học.
+ Bước 2: Củng các kiến thức này được thông qua các bài tập có gắn với các
hình ảnh trực quan.
+ Bước 3: Các kiến thức và kĩ năng củng cố thông qua các bài tập với các số
thuần tuý mà không kèm các hình ảnh trực quan. Lúc này học sinh đã có thể làm việc
trực tiếp với các số, thuần tuý, mà không phải dựa vào các hình ảnh trực quan ban đầu.
* Phương pháp được sử dụng dạy hình thành các số đến 1000 là phương pháp
trực quan, phương pháp gợi mở vấn đáp, phương pháp thực hành luyện tập.
Ví dụ:
Dạy bài: “Các số tròn chục từ 110 đến 200”.
Đồ dùng chuẩn bị là các mô hình số biểu diễn trăm , chục, đơn vị (cả giáo
viên và học sinh. Cách tiến hành bằng trực quan, giáo viên gắn lên bảng các mô hình
biểu diễn trăm, chục, đơn vị) Cho học sinh nêu hoặc điền vào bảng con các số tròn chục
đã biết. Cho học sinh nhận xét đặc điểm các số tròn chục. Số tròn chục có chữ số tận
cùng bên phải là chữ số 0 .Tiếp đó giáo viên gắn các mô hình biểu diễn 110, 120. Học
sinh được quan sát và nêu được hình vẽ cho biết có mấy trăm, mấy chục, mấy đơn vị.
Tương tự cho học sinh làm trên mô hình để tìm ra số 130, 140, 150, 160, 170, 180, 190,
200.
1.2. Dạy học các phép tính.
a. Mục tiêu:
Các phép tính là tuyến kiến thức trong mạch số học của chương trình môn toán
tiểu học – mạch cốt lõi của môn Toán. Các bài dạy về phép tính chiếm phần lớn nội
dung SGK Toán 2. Vì vậy nó được coi là trọng tâm của môn Toán 2. Bài dạy về các
phép tính ở lớp 2 có thể phân chia theo các nhóm sau:
+ Các bài dạy về phép cộng phép trừ có nhớ trong phạm vi 100.
+ Các bài dạy về phép nhân với 2,3,4,5 và giới thiệu bảng nhân 2,3,4,5
+ Các bài dạy về phép chia với 2,3,4,5 và giới thiệu bảng chia 2,3,4,5.
+ Các bài dạy về thành phần của mỗi phép tính và tìm thành phần của phép tính.
+ Tính giá trị của biểu thức số đơn giản.
- Trong mỗi bài dạy về phép cộng ( phép trừ, nhân, chia) sau khi hình
thành ý nghĩa của phép toán, kĩ thuật tính, cần nêu qui tắc thực hành tính. Sau đó rèn
luyện kĩ năng tính cho học sinh.
- Trong một bài dạy về thành phần của phép tính cộng, trừ, nhân, chia, sau
khi giới thiệu tên gọi của từng thành phần chưa biết của phép tính, thì nêu cách tìm
thành phần chưa biết, rồi phát biểu thành qui tắc. Sau đó rèn luyện kĩ năng giải toán
dạng “tìm x”.
- Mục tiêu yêu cầu của các bài : “một phần hai, một phần ba, một phần tư,
một phần năm,” chủ yếu chỉ là nhận biết được “các thành phần bằng nhau của đơn vị”
không yêu cầu coi đây là dạy học phân số ở lớp 2.
- Phần tính giá trị của biểu thức số chỉ dừng lại ở các biểu thức với hai
phép tính cộng và trừ , chưa sử dụng dấu ngoặc.
b. Đồ dùng dạy học:
Đó là bộ đồ dùng Toán2 của giáo viên và học sinh. Có các mô hình tấm bìa có
các chấm tròn: hai chấm tròn, ba chấm tròn, bốn chấm tròn, năm chấm tròn. Để học về
phép nhân, phép chia và bảng nhân, bảng chia.
- Học về cộng, trừ có nhớ trong phạm vi 100, HS và GV dùng bộ que tính và các
thẻ que tính
c. Phương pháp dạy học
Tư tưởng chỉ đạo việc định hướng về phương pháp dạy học trong SGK toán 2 là
tổ chức giờ học thành các hoạt động học tập nhằm phát huy tính tích cực và chủ động
của học sinh , khuyến khích học sinh tự tìm tòi phát hiện ra kiến thức mới của bài học,
vận dụng sáng tạo kiến thức mới vào giải quyết các dạng bài tập, vào thực tiễn đời
sống. Sử dụng và khai thác triệt để các hình thức tổ chức dạy học như dạy học theo
nhóm nhỏ, dạy học cá nhân…Phương pháp dạy học các phép tính cũng theo định
hướng này. Các phươn