Đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa giáo dục đối với các cơ sở đào tạo ở Việt Nam

Tóm tắt Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu đang diễn ra nhanh, mạnh trong thời đại ngày nay. Trước bối cảnh đó, quốc tế hoá giáo dục là một xu thế mới trong chính sách phát triển giáo dục ở các nước nhằm góp phần định hướng tiến trình hội nhập/toàn cầu hoá. Quốc tế hóa giáo dục chính là quá trình hội nhập quốc tế về giáo dục đào tạo, trong đó các yếu tố quốc tế và liên văn hoá được tích hợp vào chức năng, nhiệm vụ, cách cung ứng và tiến trình tổ chức thực hiện giáo dục, đào tạo. Vấn đề này đang diễn ra mạnh mẽ trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực của hầu hết các ngành nghề tại các cơ sở đào tạo ở Việt Nam, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải nhanh chóng, để chủ động tham gia vào quá trình hội nhập trong bối cảnh hiện nay.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa giáo dục đối với các cơ sở đào tạo ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
106 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số 27 - Tháng 3 - 2019 ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH QUỐC TẾ HÓA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM BÙI THANH THỦY Tóm tắt Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu đang diễn ra nhanh, mạnh trong thời đại ngày nay. Trước bối cảnh đó, quốc tế hoá giáo dục là một xu thế mới trong chính sách phát triển giáo dục ở các nước nhằm góp phần định hướng tiến trình hội nhập/toàn cầu hoá. Quốc tế hóa giáo dục chính là quá trình hội nhập quốc tế về giáo dục đào tạo, trong đó các yếu tố quốc tế và liên văn hoá được tích hợp vào chức năng, nhiệm vụ, cách cung ứng và tiến trình tổ chức thực hiện giáo dục, đào tạo. Vấn đề này đang diễn ra mạnh mẽ trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực của hầu hết các ngành nghề tại các cơ sở đào tạo ở Việt Nam, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải nhanh chóng, để chủ động tham gia vào quá trình hội nhập trong bối cảnh hiện nay. Từ khóa: Chủ động hội nhập, quốc tế hóa giáo dục, cơ sở đào tạo Abstract Globalization, international integration is an indispensable trend that is happening quickly and strongly in this age. In this context, internationalization of education is a new trend in educational development policies in many countries to contribute to the orientation of the integration / globalization process. Internationalization of education is the process of international integration in education and training, in which international and intercultural elements are integrated into the functions, tasks, ways of delivery and the process of educational implementation. This issue is happening strongly in human resource training activities of almost industries at training institutions in Vietnam, requiring training institutions to be quick to participate into integration process in the current context. Keywords: Integration actively, internationalization of education, training institutions 1. Vấn đề quốc tế hóa giáo dục đối với các cơ sở đào tạo Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang là xu thế khách quan tác động đến mọi phương diện đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các nước, trong đó có Việt Nam. Quá trình này buộc các quốc gia vừa hợp tác, vừa phải cạnh tranh, vừa phải tận dụng cơ hội lại vừa phải khắc phục thách thức, vừa phải tạo tính riêng, lại vừa phụ thuộc lẫn nhau. Trong bối cảnh đó, hội nhập quốc tế về giáo dục đào tạo hay quá trình quốc tế hóa giáo dục của các cơ sở đào tạo ở Việt Nam là một yêu cầu hết sức cấp thiết và rất quan trọng, đặc biệt là khi Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề (MRA-TP) chính thức có hiệu lực trong khối ASEAN. Cơ sở đào tạo nào có chất lượng, phù hợp với chuẩn khu vực và quốc tế thì mới tạo nên một lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu về chất, về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo để đảm bảo tính chuyên nghiệp, đủ sức cạnh tranh và hội nhập khu vực, đáp ứng nhu cầu xã hội và thị trường lao động quốc tế. Nếu các cơ sở đào tạo ở Việt Nam không có sự chuẩn bị tốt, không tạo thế sẵn sàng chủ động trong hội nhập và quá trình hội nhập chậm sẽ dẫn đến tụt hậu, không đủ sức cạnh tranh, không thể theo kịp với sự phát triển của các cơ sở đào tạo các nước trong khu vực và thế giới, chất lượng nguồn nhân lực thấp và thậm chí có nguy cơ Việt Nam sẽ được nhìn nhận là nơi tiếp nhận và cung cấp lao động cấp thấp. 107Số 27 - Tháng 3 - 2019 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN Hội nhập quốc tế vốn là một quá trình mang bản chất chủ động, quá trình hội nhập quốc tế càng sâu sắc và toàn diện càng thúc đẩy tính chủ động của các đơn vị đào tạo. Hội nhập chủ động góp phần thực hiện tốt mục tiêu đổi mới giáo dục của quốc gia, nâng cao vị thế cạnh tranh và tạo dựng thương hiệu trong nước và quốc tế cho các cơ sở đào tạo. Có thể thấy rõ những lợi ích/tác động tích cực của hội nhập trong giáo dục, đào tạo: Các cơ sở đào tạo nhanh chóng, kịp thời tiếp cận các nguồn lực tiên tiến về công nghệ trong giáo dục đào tạo của các nước phát triển trên thế giới, nguồn nhân lực, nguồn vốn để mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới sự vận hành trong quản lý, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, hướng tới cạnh tranh quốc tế, tạo ra những lợi thế so sánh về chương trình, nội dung, giáo trình, tư liệu, thông tin, dữ liệu, phương pháp giảng dạy, giảng viên, cơ sở vật chất giữa các cơ sở đào tạo trong nước với các cơ sở đào tạo của các quốc gia có nền giáo dục phát triển cao. Đồng thời sự biểu hiện hội nhập/quốc tế hóa giáo dục còn thể hiện ở việc các cơ sở đào tạo biết tận dụng tối đa mọi nguồn lực, dồn hết tâm trí đạt mục tiêu đặt ra với những ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý mang tính quốc tế. Mặt khác, thể hiện ở mức độ thường xuyên và liên tục, không gián đoạn hoặc chần chừ, do dự của các cơ sở đào tạo trong khai thác các nguồn lực, lợi thế, lợi ích, để phục vụ mục tiêu đặt ra, đặc biệt là sự nắm bắt nhanh nhạy các cơ hội xuất hiện (4). Biết đưa ra những dự báo, phương án nhằm đầu tư cho tương lai, tạo động lực thúc đẩy đơn vị luôn luôn năng động, sáng tạo, nhạy bén và kịp thời trong suy nghĩ, hành động. Biểu hiện của sự chủ động còn được phản ánh qua việc chịu trách nhiệm và mức độ toàn diện của các cơ sở trong quá trình hội nhập; mức độ sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm của các quyết định được đưa ra trong trường hợp môi trường trong nước và quốc tế vận động khó lường. Động lực thúc đẩy sự gia tăng tính chủ động trong hội nhập là những khoản lợi ích to lớn, thậm chí vô tận do hội nhập mang lại và khả năng giảm thiểu sự tụt hậu để tạo bước phát triển đột phá. Như vậy, việc tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế/quốc tế hóa giáo dục của các cơ sở đào tạo sẽ định vị giá trị của các cơ sở đó trong hệ thống giá trị của hội nhập, đảm bảo định hình nhanh chóng và đúng mục tiêu cần đạt được trong sự ràng buộc của vị thế và quan hệ, cũng như đảm bảo đạt được mục tiêu đề ra. Đồng thời cũng phản ánh năng lực hành động của các cơ sở đào tạo để triệt để khai thác các khoản lợi ích, các cơ hội, tự tin đón nhận những thách thức và để sự chủ động được hiện thực hóa. 2. Thực tế đòi hỏi của thị trường lao động hiện nay đối với việc đẩy nhanh sự chủ động quốc tế hóa giáo dục của các cơ sở đào tạo ở Việt Nam Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới có thể sẽ chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của thị trường việc làm và tăng trưởng trong những năm sắp tới. Riêng đối với cộng đồng các quốc gia ASEAN mà Việt Nam tham gia, theo Báo cáo chung giữa ILO/ADB với tiêu đề “Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới việc làm tốt hơn và sự thịnh vượng chung” được công bố vào tháng 5/2014 thì hội nhập kinh tế sẽ giúp tạo thêm 14 triệu việc làm ở khu vực ASEAN và cải thiện đời sống của 600 triệu người dân hiện sinh sống trong khối. Nhu cầu việc làm cần tay nghề trung bình nói chung sẽ tăng mức nhanh nhất, ở mức 28% (3). Đặc biệt khi cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) hình thành sẽ tác động trực tiếp đến thị trường lao động của từng quốc gia nói riêng và của khu vực nói chung. Theo đó, vấn đề di chuyển lao động trong khu vực là một nhu cầu tất yếu để tạo điều kiện thúc đẩy quá trình hợp tác và lưu thông thương mại giữa các nước. Dòng chảy của lao động tự do có tay nghề sẽ ngày càng gia tăng. Trên thực tế, hiện thị trường lao động trong khu vực cũng như trên thế giới cho thấy rõ sự chuyển dịch của những dòng chảy nhân công lao động giữa các quốc gia. Khối ASEAN mà Việt Nam là thành viên đã thông qua Thoả thuận công nhận lẫn nhau (MRAs) cho 8 ngành nhằm tạo thuận lợi cho việc di chuyển, xuất khẩu lao động: du lịch, kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều tra viên. Lúc này lao động 108 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số 27 - Tháng 3 - 2019 Việt Nam có cơ hội tìm kiếm việc làm tại các thị trường phát triển như Singapo, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, nhưng đồng thời, Việt Nam cũng sẽ tiếp nhận nhiều lao động chất lượng cao từ các nước trên thế giới, trong khu vực đến làm việc. Thực tế này có thể sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ tiềm ẩn. Thứ nhất, lao động Việt Nam phải cạnh tranh với lao động các nước ngay trên sân nhà. Thứ hai, thị trường mở cửa, với điều kiện làm việc và mức lương cao ở các nước phát triển hơn sẽ thu hút lực lượng lao động có kỹ năng, tay nghề cao từ Việt Nam và nhiều lao động Việt Nam mong muốn được sang nước ngoài làm việc. Người lao động Việt Nam phải cạnh tranh với chính lao động trong nước, sinh viên phải cạnh tranh với chính sinh viên. Ai thiếu kinh nghiệm, thiếu kỹ năng, thiếu trình độ tay nghề tất yếu bị đào thải và đặc biệt việc nhập khẩu lao động chất lượng cao tất yếu sẽ xảy ra. Hơn nữa với sự phát triển mạnh của nền công nghiệp 4.0 đang diễn ra sẽ tạo những thay đổi lớn về cung - cầu lao động. Thị trường lao động sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động cũng như cơ cấu lao động. Trong một số lĩnh vực, số lượng nhân viên cần thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với hiện nay. Như vậy, số nhân lực dôi dư sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Quá trình hợp tác lao động, sự thiếu thốn về nhân công ở các nước phát triển, sự thay thế nhân công trong sản xuất, kinh doanh do áp dụng công nghệ tiến tiến hiện nay sẽ mang đến nhiều cơ hội và thách thức đối với tiến trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam và sự thay đổi thị trường lao động. Tiến tới quá trình hội nhập/hợp tác đó, có thể nhìn nhận sự đòi hỏi về nguồn lao động trong bối cảnh thực tại qua các yếu tố: 1/Kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp; 2/Năng lực nghề nghiệp; 3/Tình cảm, đạo đức, thái độ, hành vi; 4/Đặc điểm ý chí. Thứ nhất, về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp: Người lao động Việt Nam phải có kiến thức nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ cao đáp ứng được thị trường lao động quốc tế. Phải triển khai tốt kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng truyền thông, kỹ năng sống, cũng như các kỹ năng mềm khác cần thiết cho lao động của mỗi cá nhân như: kỹ năng làm việc trong môi trường đa văn hóa, kỹ năng giao tiếp tích cực, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, kỹ năng quản lý thời gian, thư giãn (vượt qua khủng khoảng, áp lực). Phải có tư duy sáng tạo và đổi mới. Người lao động không có các kỹ năng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thích nghi với thực tế và chất lượng công việc, không đáp ứng khi gia nhập môi trường làm việc quốc tế. Thứ hai, về năng lực nghề nghiệp: So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, người lao động Việt Nam nhìn chung có các phẩm chất vượt trội như: thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử dụng các kỹ thuật công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng của người lao động Việt Nam trong quá trình hội nhập và tham gia thị trường lao động quốc tế. Tuy nhiên, mức độ tham gia sân chơi khu vực và thế giới của người lao động Việt Nam còn rất hạn chế. Trong nền kinh tế hiện đại, tổ chức lao động có nhiều thay đổi như quan hệ giữa chủ lao động và người lao động, nên người lao động ngày càng phải được chuyên môn hóa; kiến thức, kỹ năng sử dụng công nghệ ngày một cao; phải có thái độ nghiêm túc, tính kỷ luật tốt. Người lao động không được phép thụ động và chờ đợi, phải dám nghĩ dám làm, dám đảm nhận trách nhiệm về mình. Đồng thời với quá trình phân công lao động hiện nay, người lao động đòi hỏi phải có chuyên môn, kỹ năng kiến thức giỏi, ứng với chuyên ngành chuyên sâu nào đó phù hợp với quy mô tổ chức, quy trình riêng biệt của từng ngành. Chịu được áp lực lao động cao trong điều kiện làm việc quốc tế bởi trong môi trường làm việc hiện đại người lao động phải giao tiếp với nhiều người, làm cùng một lúc nhiều việc, nhiều loại yêu cầu, thông tin phải tiếp nhận xử lý trong thời gian ngắn với hiệu quả chất lượng tốt nhất. Vì vậy, người lao động cần có sức khỏe tốt, độ tập trung cao, chuyên môn giỏi, biết khai thác thế mạnh và sử dụng thành thạo các công cụ hỗ trợ cho công việc. Thứ ba, về tình cảm, thái độ và hành vi: Thái độ người lao động được đánh giá qua tinh thần cầu tiến, năng lực chịu trách nhiệm và tính kỷ luật của người lao động. Ý thức lao động được 109Số 27 - Tháng 3 - 2019 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN thể hiện ở chỗ người lao động phải nhận thức về nghĩa vụ lao động và trách nhiệm đối với công việc được giao. Cũng như tình cảm, thái độ là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của người lao động với công việc. Thái độ làm chủ là cái thiếu nhất đối với người lao động Việt Nam. Thứ tư, về đặc điểm ý chí: Ý chí là nhân tố quan trọng tạo nên bản lĩnh con người bởi nó chứa đựng các phẩm chất như tính mục đích, độc lập, sự quyết đoán, sự kiên trì, dũng cảm, tính tự chủ, kiềm chế hay chịu đựng. Những phẩm chất này rất cần thiết trong môi trường cạnh tranh quốc tế hiện nay. Trên cơ sở yêu cầu đối với nguồn nhân lực/ lao động trong bối cảnh hiện nay, soi vào thực tế, nhiều nhà nghiên cứu đánh giá tình trạng khá phổ biến của người lao động Việt Nam là còn rất nhiều hạn chế, có khoảng cách lớn so với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là chưa có tính chuyên nghề, ngoại ngữ kém và thiếu tác phong công nghiệp. Tỷ lệ lao động hiện đang tham gia vào thị trường lao động còn thấp, đạt khoảng 30%. Chất lượng lao động còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập. Chỉ có 18,38% lao động nông nghiệp có bằng cấp, chứng chỉ qua đào tạo. Nhóm lao động phổ thông trình độ tay nghề hạn chế. Gần 80% số người lao động từ 15 tuổi trở lên chưa được đào tạo nghề có văn bằng, chứng chỉ (1). Tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên chủ yếu tập trung tại 3 thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng làm việc của lao động trình độ đại học và lao động nghề ở Việt Nam còn hạn chế. Các kỹ năng cần thiết như quản lý và lãnh đạo, kỹ năng chuyên môn, tay nghề và dịch vụ khách hàng còn yếu. Qua khảo sát, 50% chủ lao động cho biết người lao động tốt nghiệp phổ thông không có kỹ năng mà người sử dụng lao động cần và cũng chỉ có gần 50% chủ lao động nói rằng cử nhân tốt nghiệp đại học có được những kỹ năng cần. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chỉ đạt 3,39/10 điểm trong khi một số nước trong khu vực như Malaysia là 5,59/10, Thái Lan là 4,94/10 (1) Nguồn nhân lực Việt Nam phân bố không hợp lý, có nhiều bất cập về chất lượng đào tạo, nhiều lao động không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng Tính đến quý I/2017, số người thất nghiệp có trình độ đại học trở lên là 138,8 nghìn người, chiếm tỷ lệ 2,79%; có trình độ cao đẳng là 104,2 nghìn người, chiếm tỷ lệ 6%; có trình độ trung cấp là 83,2 nghìn người, chiếm tỷ lệ 3,08% (2). Như vậy, nguồn nhân lực Việt Nam nói chung chưa thực sự đảm bảo được những điều kiện để sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động nước ngoài. Đây là hạn chế lớn của lực lượng lao động Việt Nam trước bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. 3. Phương thức gia tăng sự chủ động quốc tế hóa giáo dục đối với các cơ sở đào tạo ở Việt Nam 3.1. Từ góc độ quốc gia - Nhà nước cần coi công tác đào tạo nói chung và đào tạo các ngành được lựa chọn tham gia ký kết vào thỏa thuận thừa nhận lao Bảng1. Tổng kết nghiên cứu đánh giá nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa (5) STT Đặc điểm của người lao động 1 Sức khỏe hạn chế, nhất là độ bền dẻo dai thấp, chưa quen trải qua cường độ, áp lực cao, cấp tập (thấp bé, nhẹ cân). 2 Nhu cầu sống và phát triển của nhiều người còn đơn giản, thấp, dẫn tới động cơ hoạt động không đủ mạnh. 3 Hay tiếc tiền, không quen, ít dám mạo hiểm, nấn ná, lừng khừng, không chịu cạnh tranh hoặc bỏ học phí cho việc lớn. 4 Hiểu biết chưa đủ sâu, rộng; trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn thiếu cơ bản và hạn chế. 5 Làm việc còn thiếu nghiêm túc, thiếu suy nghĩ. 6 Tác phong công nghiệp còn ít và chưa được định hình bền chặt. 7 Thói quen xấu còn nhiều như: hay nhòm ngó, ghen tỵ, đố kỵ, cản phá nhau; dựa dẫm, thụ động, tự do, tùy tiện. 110 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số 27 - Tháng 3 - 2019 động nói riêng là vấn đề then chốt và phải được thực hiện một cách nghiêm túc, căn cơ hơn bằng những chính sách ưu tiên phát triển. Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải trở thành một chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Coi đây là khâu đột phá trong quá trình hội nhập và phát triển. - Thúc đẩy hội nhập giáo dục Việt Nam với hệ thống giáo dục đào tạo khu vực và thế giới: Tích cực trong giao lưu giáo dục (trao đổi giáo viên, học sinh/sinh viên, giáo trình, tài liệu, sử dụng đội ngũ chuyên gia quốc tế, đưa sinh viên sang thực tập tại các nước trong khu vực), đàm phán xây dựng tiêu chuẩn giáo dục trong khu vực ASEAN, làm cơ sở cho việc áp dụng ở các quốc gia trong khu vực. Những lao động được đào tạo trong hệ thống giáo dục đào tạo chung của khu vực sẽ đáp ứng được các yêu cầu của thị trường lao động tại các quốc gia. - Có chính sách và giải pháp để các cơ sở đào tạo tiến tới tham gia thương mại dịch vụ giáo dục trong chiến lược hội nhập. Chuyển từ viện trợ sang thương mại bởi nguồn lực trong hợp tác quốc tế dần sẽ giảm đi nhường chỗ cho nguồn lực trong thương mại dịch vụ giáo dục. Vì vậy, cần có chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư nước ngoài để phát triển mạnh mẽ giáo dục trên các lĩnh vực đã mở cửa; đó cũng chính là các lĩnh vực có nhu cầu lớn về nguồn nhân lực trình độ cao trước yêu cầu hội nhập và phát triển. Các mục tiêu ưu tiên cần đạt được là phát triển du học tại chỗ, hiện đại hoá giáo dục, góp phần xây dựng mô hình giáo dục mở. Về lâu dài có thể tính đến việc xuất khẩu và chuyển sang mô hình cung ứng chuẩn thị truờng. - Cần nhanh chóng hoàn tất việc triển khai khung trình độ quốc gia hướng tới chuẩn quốc tế để giúp các cơ sở đào tạo đào tạo theo đúng chương trình chuẩn thống nhất và phù hợp với trình độ chung trong khu vực, công nhận lẫn nhau về trình độ và kỹ năng giữa các nước. - Bộ Giáo dục và Đào tạo, chính quyền các địa phương cần thực hiện thường xuyên việc cung cấp thông tin chính thống dự báo nhu cầu lao động, các chuẩn ngành, nghề đến các cơ sở đào tạo. - Xây dựng quy định, cơ chế liên kết quốc tế trong đào tạo phát triển nhân lực ngành; liên kết giữa các cơ quan quản lý với các cơ sở đào tạo, cơ sở sử dụng nhân lực; liên kết giữa các cơ sở trong mạng lưới đào tạo; tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp nước ngoài phát triển cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao, hợp tác đào tạo tại Việt Nam. - Thiết lập Hiệp hội mạng lưới các cơ sở đào tạo trong cả nước, mạng hỗ trợ thư viện và tư liệu du lịch, mạng cung cấp và trao đổi thông tin giữa các cơ sở đào tạo. - Hoàn thiện và triển khai đồng bộ tiêu chí kiểm định chất lượng đào tạo nghề và đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia. Thực hiện kiểm định cơ sở đào tạo nghề và kiểm định chương trình; phát triển các trung tâm đánh giá kỹ năng nghề cho người lao động gắn với đầu tư xây dựng ở các cơ sở đào tạo nghề ở một số doanh nghiệp và một số cơ sở khác. - Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn cơ sở vật chất, danh mục thiết bị đào tạo nghề cho từng loại nghề theo tiêu chuẩn cơ sở vật chất, danh mục thiết bị đào tạo nghề của các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các bộ, ngành đưa vào tiêu chí cấp phép mở trường, đánh giá chất lượng và xếp hạng cơ sở đào tạo. 3.2. Từ phía các cơ sở đào tạo Đối với các cơ sở đào tạo, việc đầu tiên là các trường phải thực hiện đầy đủ các quy định của Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi hành luật hiện hành để đổi mới căn bản các hoạt động