Từ cơ chế tập trung–bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của 
nhà nước là sự đổi mới sáng suốt của đảng ta. Thực tế gần 20 năm cho thấy 
nền kinh tế đã có những bước khởi sắc đáng ghi nhận. Các doanh nghiệp Việt 
Nam đang đứng lên khẳng định mình trong cơ chế mới, chủ động và sáng tạo 
hơn trong những bước phát triển của mình.
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khắc nghiệt, các doanh 
nghiệp muốn tồn tại và phát triển được một cách bền vững cần quan tâm tới 
tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Để làm tốt những công việc 
này đòi hỏi phải có những người lao động giỏi và hăng say làm việc vì doanh 
nghiệp của mình.
Vậy làm thế nào để tạo được động lực đôí với người lao động? Câu hỏi 
này luôn được đặt ra đối với bất kỳ nhà quản lý nào muốn giành thắng lợi trên 
thương trường.
Trong phạm vi nội dung đề án này em muốn đưa ta một số học thuyết, 
quan điểm cùng những thực tiễn đã có để làm sáng tỏ vấn đềnày.
Do chưa có điều kiện quan sát thực tiễn ở các doanh nghiệp nên những 
vấn đề em nêu chỉ mang tính lý thuyết nhưng những vấn đề này đã được các 
nhà khoa học hành vi đúc kết từ thực tiễn.
Kết cấu đề án được trình bầy theo bố cục sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận chung về việc tạo động lực cho người lao 
động.
- Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến tạo động lực đối với người lao 
động.
- Chương 3: Tổ chức tốt các yếu tố tạo động lực cho người lao động.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 26 trang
26 trang | 
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2527 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các nhân tố ảnh hưởng tới động lực và tạo động lực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Đề Tài: 
Các nhân tố ảnh hưởng tới 
động lực và tạo động lực 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 1 
 LỜI MỞ ĐẦU 
Từ cơ chế tập trung–bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của 
nhà nước là sự đổi mới sáng suốt của đảng ta. Thực tế gần 20 năm cho thấy 
nền kinh tế đã có những bước khởi sắc đáng ghi nhận. Các doanh nghiệp Việt 
Nam đang đứng lên khẳng định mình trong cơ chế mới, chủ động và sáng tạo 
hơn trong những bước phát triển của mình. 
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khắc nghiệt, các doanh 
nghiệp muốn tồn tại và phát triển được một cách bền vững cần quan tâm tới 
tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Để làm tốt những công việc 
này đòi hỏi phải có những người lao động giỏi và hăng say làm việc vì doanh 
nghiệp của mình. 
Vậy làm thế nào để tạo được động lực đôí với người lao động? Câu hỏi 
này luôn được đặt ra đối với bất kỳ nhà quản lý nào muốn giành thắng lợi trên 
thương trường. 
Trong phạm vi nội dung đề án này em muốn đưa ta một số học thuyết, 
quan điểm cùng những thực tiễn đã có để làm sáng tỏ vấn đề này. 
Do chưa có điều kiện quan sát thực tiễn ở các doanh nghiệp nên những 
vấn đề em nêu chỉ mang tính lý thuyết nhưng những vấn đề này đã được các 
nhà khoa học hành vi đúc kết từ thực tiễn. 
Kết cấu đề án được trình bầy theo bố cục sau: 
- Chương 1: Cơ sở lý luận chung về việc tạo động lực cho người lao 
động. 
- Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến tạo động lực đối với người lao 
động. 
- Chương 3: Tổ chức tốt các yếu tố tạo động lực cho người lao động. 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 2 
 CHƯƠNG 1: CỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC TẠO ĐỘNG LỰC 
 ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG. 
I. Các khái niệm cơ bản. 
1.Động lực là gì? 
Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích. Vì vậy các nhà 
quản lý luôn tìm cách để trả lời câu hỏi là tại sao người lao động lại làm việc. 
Để trả lời được cho câu hỏi này các nhà quản trị phải tìm hiểu về động lực của 
người lao động và tìm cách tạo động lực cho người lao động trong quá trình 
làm việc. 
 Vậy động lực là gì? Động lực là sự khao khát và tự nguyện của con 
người để nâng cao mọi nỗ lực của mình nhằm đạt được mục tiêu hay kết quả 
cụ thể nào đó. 
Như vậy động lực xuất phát từ bản thân của mỗi con người. Khi con 
người ở những vị trí khác nhau, với những đặc điểm tâm lý khác nhau sẽ có 
những mục tiêu mong muốn khác nhau. Chính vì những đặc điểm này nên 
động lực của mỗi con người là khác nhau vì vậy nhà quản lý cần có những 
cách tác động khác nhau đến mỗi người lao động. 
2.Tạo động lực là gì? 
Đây là vấn đề thuộc lĩnh vực quản trị của mỗi doanh nghiệp. Các nhà 
quản trị trong tổ chức muốn xây dựng công ty, xí nghiệp mình vững mạnh thì 
phải dùng mọi biện pháp kích thích người lao động hăng say làm việc, phát 
huy tính sáng tạo trong quá trình làm việc. Đây là vấn đề về tạo động lực cho 
người lao động trong doanh nghiệp. 
Vậy tạo động lực cho người lao động được hiểu là tất cả các biện pháp 
của nhà quản trị áp dụng vào người lao động nhằm tạo ra động cơ cho người 
lao động ví dụ như: thiết lập nên những mục tiêu thiết thực vừa phù hợp với 
mục tiêu của người lao động vừa thoả mãn được mục đích của doanh nghiệp, 
sử dụng các biện pháp kích thích về vật chất lẫn tinh thần… 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 3 
Vậy vấn đề quan trọng của động lực đó là mục tiêu. Nhưng để đề ra 
được những mục tiêu phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của người lao động, 
tạo cho người lao động sự hăng say, nỗ lực trong quá trình làm việc thì nhà 
quản lý phải biết được mục đích hướng tới của người lao động sẽ là gì. Việc 
dự đoán và kiểm soát hành động của người lao động hoàn toàn có thể thực 
hiện được thông qua việc nhận biết động cơ và nhu cầu của họ. 
Nhà quản trị muốn nhân viên trong doanh nghiệp của mình nỗ lực hết 
sức vì doanh nghiệp thì họ phải sử dụng tất cả các biện pháp khuyến khích đối 
với người lao động đồng thời tạo mọi điều kiện cho người lao động hoàn 
thành công việc của họ một cách tốt nhất. Khuyến khích bằng vật chất lẫn tinh 
thần, tạo ra bầu không khí thi đua trong nhân viên có ý nghĩa hết sức quan 
trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Các nhà quản trị đã từng nói “Sự 
thành bại của công ty thường phụ thuộc vào việc sử dụng hợp lý nhân viên 
trong doanh nghiệp như thế nào”. 
II. Một số học thuyết về tạo động lực. 
1. Thuyết các cấp bậc nhu cầu của Maslow. 
Thông thường hành vi của con người tại một thời điểm nào đó được 
quyết định bởi nhu cầu mạnh nhất của họ. Theo Maslow nhu cầu của con 
người được sắp xếp theo thứ tự gồm 5 cấp bậc khác nhau. Khi những nhu cầu 
cấp thấp đã được thoả mãn thì sẽ nảy sinh ra các nhu cầu mới cao hơn. 
Hệ thống thang bậc nhu cầu của Maslow: 
 Tự 
 khẳng định 
 mình 
 Nhu cầu tôn trọng 
 Nhu cầu xã hội 
 Nhu cầu an toàn 
 Nhu cầu sinh lý 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 4 
1.1 Nhu cầu sinh lý. 
Đây là những nhu cầu cơ bản nhất của con người như: ăn, mặc, ở, đi lại. 
Nhu cầu này thường được gắn chặt với đồng tiền, nhưng tiền không phải là 
nhu cầu của họ mà nó chỉ là phương tiện cần có để họ thoả mãn được nhu cầu. 
Đồng tiền có thể làm cho con người thoả mãn được nhiều nhu cầu khác nhau, 
vì vậy các nhà quản lý luôn nhận biết được rằng đại đa số những người cần 
việc làm đều nhận thấy “tiền” là thứ quyết định. Họ luôn quan tâm tới họ sẽ 
nhận được cái gì khi họ làm việc đó. 
1.2 Nhu cầu an toàn. 
Một số nhà nghiên cứu nhu cầu này của Maslow và cho rằng nhu cầu an 
toàn không đóng vai trò nhiều trong việc tạo động lực cho người lao động 
nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Khi người lao động vào làm việc trong 
doanh nghiệp họ sẽ quan tâm rất nhiều đến công việc của họ thực chất là làm 
gì, điều kiện làm việc ra sao, công việc có thường xuyên xảy ra tai nạn hay 
không. Sự an toàn không chỉ đơn thuần là những vấn đề về tai nạn lao động 
mà nó còn là sự bảo đảm trong công việc, các vấn đề về bảo hiểm xã hội, trợ 
cấp, hưu trí 
1.3 Nhu cầu xã hội. 
Khi những nhu cầu về sinh lý và an toàn đã được thoả mãn ở một mức 
độ nào đó thì con người nảy sinh ra những nhu cầu cao hơn, lúc này nhu cầu 
xã hội sẽ chiếm ưu thế. Người lao động khi sống trong một tập thể họ muốn 
hoà mình và chung sống hoà bình và hữu nghị vơí các thành viên khác trong 
tập thể, họ luôn có mong muốn coi tập thể nơi mình làm việc là mái ấm gia 
đình thứ hai. Chính vì nhu cầu này phát sinh mạnh mẽ và cần thiết cho người 
lao động nên trong mỗi tổ chức thường hình thành nên các nhóm phi chính 
thức thân nhau. Các nhóm này tác động rất nhiều đến người lao động, nó có 
thể là nhân tố tích cực tác động đến người lao động làm họ tăng năng suất và 
hiệu quả lao động nhưng nó cũng có thể là nhân tố làm cho người lao động 
chán nản không muốn làm việc. Vậy các nhà quản lý cần phải biết được các 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 5 
nhóm phi chính thức này để tìm ra phương thức tác động đến người lao động 
hiệu quả nhất. 
1.4 Nhu cầu được tôn trọng. 
Nhu cầu này thường xuất hiện khi con người đã đạt được những mục 
tiêu nhất định, nó thường gắn với các động cơ liên quan đến uy tín và quyền 
lực. 
- Uy tín là một cái gì đó vô hình do xã hội dành cho một cá nhân nào đó. 
Uy tín dường như có ảnh hưởng tới mức độ thuận tiện và thoải mái mà người 
ta có thể hy vọng trong cuộc sống. 
- Quyền lực là cái làm cho một người có thể đem lại sự bằng lòng hoặc 
tới các ảnh hưởng khác. 
1.5 Nhu cầu tự khẳng định mình. 
Theo Maslow thì đây là nhu cầu rất khó có thể nhận biết và xác minh, 
và con người thoả mãn những nhu cầu này theo nhiều cách rất khác nhau. 
Trong doanh nghiệp nhu cầu này được thể hiện chính là việc người lao động 
muốn làm việc theo chuyên môn, nghiệp vụ, sở trường của mình và ở mức cao 
hơn đấy chính là mong muốn được làm mọi việc theo ý thích của bản thân 
mình. Lúc này nhu cầu làm việc của người lao động chỉ với mục đích là họ sẽ 
được thể hiện mình, áp dụng những gì mà họ đã biết, đã trải qua vào công việc 
hay nói đúng hơn là người ta sẽ cho những người khác biết “tầm cao” của 
mình qua công việc. 
Trong hệ thống nhu cầu này Maslow đã sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến 
cao về tầm quan trọng nhưng trong những điều kiện xã hội cụ thể thì thứ tự 
này có thể sẽ bị đảo lộn đi và nhưng nhu cầu nào đã được thoả mãn thì nó sẽ 
không còn tác dụng tạo động lực nữa. 
2 Thuyết kỳ vọng của Victor-Vroom. 
Học thuyết này được V.Vroom xây dựng dựa trên một số yếu tố tạo 
động lực trong lao động như: tính hấp dẫn của công việc, mối liên hệ giữa kết 
quả và phần thưởng, mối liên hệ giữa sự nỗ lực quyết tâm với kết quả lao 
động của họ 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 6 
V.Vroom đã đặt mối quan hệ giữa các yếu tố tạo động lực cho người lao 
động trong một tương quan so sánh với nhau, vì vậy để vận dụng lý thuyết 
này vào trong quá trình quản lý đòi hỏi nhà quản trị phải có trình độ nhất định. 
 Khi con người nỗ lực làm việc họ sẽ mong đợi một kết quả tốt đẹp cùng 
với một phần thưởng xứng đáng. Nếu phần thưởng phù hợp với nguyện vọng 
của họ thì nó sẽ có tác động tạo ra động lực lớn hơn trong quá trình làm việc 
tiếp theo. 
Kỳ vọng của người lao động có tác dụng tạo động lực rất lớn cho người 
lao động, nhưng để tạo được kỳ vọng cho người lao động thì phải có phương 
tiện và điều kiện để thực hiện nó. Những phương tiện này chính là các chính 
sách, cơ chế quản lý, điều kiện làm việc… mà doanh nghiệp đảm bảo cho 
người lao động. Đặc biệt doanh nghiệp khi thiết kế công việc cho người lao 
động phải thiết kế đủ cao để họ phát huy được tiềm năng của mình nhưng 
cũng phải đủ thấp để họ nhìn thấy kết quả mà họ có thể đạt được. 
3 Học thuyết về sự công bằng của Stacy Adams. 
Công bằng là yếu tố quan tâm đặc biệt của người lao động, họ luôn so 
sánh những gì họ đã đóng góp cho doanh nghiệp với những gì mà họ nhận 
được từ doanh nghiệp, đồng thời họ còn so sánh những gì mà họ nhận được 
với những gì mà người khác nhận được. Việc so sánh này có thể là giữa các cá 
nhân khác nhau trong cùng một đơn vị, tổ chức hoặc giữa các đơn vị khác 
nhau, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là sự so sánh trong cùng một đơn vị vì 
trong cùng một đơn vị thì mọi người sẽ biết về nhau rõ hơn và nó là yếu tố để 
mọi người so sánh và thi đua làm việc. Tuy nhiên đối với bất kỳ doanh nghiệp 
nào thì tạo công bằng trong và ngoài doanh nghiệp đều là vấn đề khó khăn và 
phức tạp. Khi tạo công bằng trong nội bộ doanh nghiệp sẽ thúc đẩy người lao 
động làm việc có hiệu quả hơn nhằm làm tăng năng suất, còn khi tạo được 
công bằng ngoài doanh nghiệp thì sẽ giúp cho người lao động gắn bó với 
doanh nghiệp hơn. 
Nhưng sự công bằng mà nhà quản trị tạo ra cho người lao động có được 
người lao động cảm nhận được hay không lại là các vấn đề thuộc về việc tạo 
lập các chính sách của người lao động. Do việc cảm nhận sự công bằng thuộc 
vào ý chí chủ quan của người lao động cho nên khi thiết lập nên các chính 
sách nhà quản trị cần quan tâm, tham khảo ý kiến của người lao động để các 
chính sách sẽ gần gũi hơn đối với người lao động. 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 7 
III. Vai trò của tạo động lực. 
Qua nghiên cứu một số học thuyết, quan điểm quản trị trên ta thấy được 
động lực có vai trò quan trọng trong việc quyết định hành vi người lao động. 
- Người lao động sẽ có những hành vi tích cực trong việc hoàn thiện mình 
thông qua công việc. 
- Động lực thúc đẩy hành vi ở hai góc độ trái ngược nhau đó là tích cực 
và tiêu cực. Người lao động có động lực tích cực thì sẽ tạo ra được một tâm lý 
làm việc tốt, lành mạnh đồng thời cũng góp phần làm cho doanh nghiệp ngày 
càng vững mạnh hơn. 
Tạo động lực luôn là vấn đề đặt ra đối với mỗi nhà quản lý. Chính sách 
tiền lương, tiền thưởng có phù hợp hay không? Bố trí công việc có hợp lý hay 
không? Công việc có làm thoả mãn được nhu cầu của người lao động hay 
không?… Tất cả những yếu tố này quyết định đến việc hăng hái làm việc hay 
trì trệ bất mãn dẫn đến từ bỏ doanh nghiệp mà đi của người lao động. 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 8 
 CHƯƠNG 2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TẠO ĐỘNG LỰC 
 ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG. 
I Yếu tố thuộc về cá nhân người lao động. 
1. Nhu cầu của người lao động. 
Con người ở một khoảng không gian nhất định luôn có nhiều nhu cầu 
khác nhau, trong những nhu cầu đó nhu cầu nào đã chín muồi sẽ là động cơ 
mạnh nhất quyết định hành vi của họ và khi nhu cầu đó đã được thỏa mãn thì 
nó sẽ không còn là động cơ thúc đẩy con người làm việc nữa mà lúc này nhu 
cầu mới xuất hiện sẽ đóng vai trò này. 
Ví dụ một công nhân bình thường có ước muốn trở thành một đốc công 
và anh ta sẽ cố gắng làm việc hết sức để trở thành một đốc công nhưng khi 
anh ta đã trở thành đốc công rồi thì nhu cầu này sẽ không có tác dụng thúc đẩy 
anh ta làm việc nữa mà nhu cầu thúc đẩy anh ta làm việc mạnh hơn sẽ là 
mong muốn được trở thành tổ trưởng của anh ta. Như vậy con người ở những 
vị trí xã hội khác nhau, những điều kiện kinh tế khác nhau thì họ sẽ nảy sinh 
ra các nhu cầu khác nhau. 
Theo quan điểm của quản trị Marketing thì các nhà quản trị luôn tìm các 
biện pháp quản trị thích hợp để gợi mở những nhu cầu của người lao động, 
khuyến khích họ nỗ lực làm việc tạo ra những sản phẩm thoả mãn khách hàng. 
Đó chính là bí quyết của sự thành công. 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 9 
2. Giá trị cá nhân. 
Giá trị cá nhân ở đây có thể hiểu là trình độ, hình ảnh của người đó 
trong tổ chức hay xã hội. Tuỳ theo quan điểm giá trị khác nhau của mỗi cá 
nhân mà họ sẽ có những hành vi khác nhau, khi người lao động ở những vị trí 
khác nhau trong tổ chức thì thang bậc giá trị cá nhân của họ cũng thay đổi dù 
nhiều hay ít. 
Ví dụ khi ta xem xét những người nhiều ý chí, giàu tham vọng và có 
lòng tự trọng cao thì việc xây dựng cho mình một hình ảnh đẹp là rất quan 
trọng bởi vì họ luôn muốn khẳng định mình qua công việc. 
3. Đặc điểm tính cách. 
Tính cách con người là sự kết hợp các thuộc tính tâm lý cơ bản và bền 
vững của con người. Nó được biểu thị thành thái độ, hành vi của con người 
đối với bản thân, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và đối với cả xã hội nói chung. 
Như vậy tính cách không phải là do di truyền mà nó chính là hiệu quả 
tác động của sự giáo dục, rèn luyện của bản thân và sự tác động gián tiếp của 
môi trường mà người đó được sống và làm việc trong đó. Các nhà quản trị khi 
biết được tính cách của mỗi người lao động trong doanh nghiệp mình thì nó sẽ 
là cơ sở để họ tìm ra cách đối xử và sử dụng tốt hơn. 
Tính cách gồm hai đặc điểm cơ bản là đạo đức và ý chí: 
- Về đạo đức: Đó chính là tính đồng loại, lòng vị tha hay tính ích kỷ, tính 
trung thực hay dối trá, cẩn thận hay cẩu thả, chăm chỉ hay lười biếng… 
- Về ý chí: Đó là tính cương quyết hay nhu nhược, dám chịu trách nhiệm 
hay đùn đẩy trách nhiệm, có tính độc lập hay phụ thuộc… 
Tính cách con người cũng là yếu tố cơ bản tác động đến hành vi hay 
ứng xử của người nào đó. Ví dụ khi gặp khó khăn hay trở ngại trong công việc 
thì người có tính độc lập và dám chịu trách nhiệm sẽ xem đó là một động lực 
để quyết tâm làm việc tốt hơn còn nếu là người không dám đối diện với trách 
nhiệm, sống phụ thuộc vào người khác thì họ sẽ run sợ trước sự khó khăn này 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 10 
và họ có thể sẽ bỏ dở chừng công việc hoặc đi tìm một người dám đứng ra 
chịu trách nhiệm hộ họ. 
4. Khả năng, năng lực của mỗi người. 
Khả năng hay còn gọi là năng khiếu là những thuộc tính cá nhân giúp 
con người có thể lĩnh hội một công việc, một kỹ năng hay một loại kiến thức 
nào đó được dễ dàng và khi họ được hoạt động ở lĩnh vực đó thì khả năng của 
họ sẽ được phát huy tối đa, kết quả thu được sẽ cao hơn những người khác. 
Năng lực vừa là yếu tố di truyền vừa là kết quả của sự rèn luyện. Năng 
lực là cơ sở để tạo ra khả năng của con người. Năng lực được thực hiện và 
trưởng thành chủ yếu trong thực tế. Trong các loại năng lực của con người thì 
quan trọng nhất là năng lực tổ chức và năng lực chuyên môn. Người lao động 
có thể có một trình độ chuyên môn rất tốt nhưng nếu họ chỉ được sắp xếp để 
làm những công việc ngang bằng với trình độ hiện có thì năng lực của họ 
cũng chưa được phát huy hết sức vì người lao động là con người mà con 
người thì họ luôn muốn tìm tòi, học hỏi để nâng cao tầm hiểu biết của mình 
lên. Vì vậy trong thực tế quá trình lao động nhà quản trị luôn phải thiết kế 
công việc, bố trí nhân lực sao cho người lao động có điều kiện để duy trì và 
phát triển năng lực chuyên môn của mình. Đồng thời trong quá trình làm việc, 
nếu có thể được thì nhà quản trị nên thiết lập nên một không gian cho người 
lao động để họ tự tổ chức nơi làm việc sao cho hợp lý với họ nhất. 
Đánh giá đúng năng lực nhân viên là cơ sở để nhà quản lý sử dụng tốt 
nhất nhân viên trong doanh nghiệp. Một người lao động sẽ thoải mái hơn khi 
họ được giao những công việc phù hợp với khả năng và năng lực của họ vì họ 
biết được chắc chắn rằng họ sẽ hoàn thành được công việc đó ở mức tốt nhất. 
Ngược lại khi phải đảm nhận những công việc ngoài khả năng hoặc những 
công việc mà họ biết chắc rằng nếu họ cố gắng cũng không thực hiện công 
việc ấy được tốt thì sẽ rất dễ gây nên tâm lý bất mãn của người lao động với tổ 
chức, doanh nghiệp. 
II. Các yếu tố bên ngoài. 
1. Yếu tố thuộc về công việc. 
1.1 Tính hấp dẫn của công việc. 
C¸c nh©n tè ¶nh hëng tíi ®éng lùc vµ t¹o ®éng lùc Lª Kim 
Hoµng 
 11 
Người lao động sẽ cảm thấy thế nào khi nhận được một công việc không 
như mong muốn của họ, ngược lại họ sẽ cảm thấy như thế nào khi nhận được 
một công việc phù hợp với khả năng, sở trường của họ… những vấn đề này sẽ 
ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động, hiệu quả làm việc của người lao 
động vì vậy nhà quản trị cần quan tâm đến nhu cầu, khả năng của người lao 
động để vừa tạo điều kiện cho người lao động phát huy khả năng của họ vừa 
tạo ra được sự thoả mãn đối với người lao động. 
Tính hấp dẫn của công việc tạo nên sự thoả mãn đối với công việc của 
người lao động. Sự thoả mãn sẽ được thể hiện ở thái độ của người đó trong 
quá trình làm việc. Tính hấp dẫn của công việc là một khái niệm khá rộng, đối 
với người lao động nó không chỉ là một công việc như mong muốn mà nó còn 
là sự kiểm soát đối với công việc, sự ủng hộ của lãnh đạo trong quá trình làm 
việc, những phần thưởng, trợ cấp đối với công việc… Tất cả những vấn đề 
này có tác dụng tạo động lực cho người lao động trong quá trình làm việc. 
Khi người lao động nhận được công việc phù hợp với khả năng, sở 
trường của họ thì họ sẽ phát huy năng lực làm việc của họ một cách tối đa dù 
những điều kiện dù bình thường nhất. Nhà quản trị cần dựa vào những đặc 
điểm tâm lý cá nhân, tính cách của người lao động để sắp xếp công việc cho 
phù hợp với họ. Những công việc có tính thách thức sẽ là động cơ tốt cho 
người lao động. 
Người lao động trong doanh nghiệp sẽ cảm thấy thoả mãn, thoải mái 
hơn khi chính sách doanh nghiệp như lương, thưởng, trợ cấp, phúc lợi phù 
hợp với nhu cầu của họ. Ví dụ khi xem xét hệ thống phân phối thu nhập ta 
phải chú ý đến nhu cầu công việc, cấp độ kỹ năng của cá nhân và những tiêu 
chuẩn phân phối trong cộng đồng, từ đó sẽ tạo ra được sự công bằng trong 
công việc và trong doanh nghiệp. 
Tuy nhiên không phải nhu cầu vật chất tồn tại ở tất cả mọi người lao 
động, có người thích tiền nhưng có người lại không phải là như vậy có thể nhu 
cầu của họ sẽ là sự tự do trong công việc, muốn được đi nhiều…vì vậy nhà 
quản lý phải dựa vào đặc điểm của mỗi cá nhân để thiết kế lên một công việc 
phù hợp nhất. 
1.2 Khả năng thăng tiến. 
Thăng tiến là quá trình một người lao động được chuyển lên một vị trí 
cao hơn trong doanh nghiệp,