Thế kỷ XX đầy giông bão mà vĩ đại này đã sản sinh ra những con người vĩ đại. Có một con người mà tiểu sử giống như những trang huyền thoại lung linh ánh sáng, thu hút tình cảm ngưỡng mộ, kính yêu của hàng triệu, hàng triệu trái tim của nhân loại tiến bộ bằng cuộc sống hào hùng, hoạt động phong phú và sự nghiệp to lớn của mình. Có một con người mà với tài năng và đức độ đã trở thành một biểu tượng hoàn thiện tuyệt vời về cả sức mạnh chiến thắng lẫn lòng nhân ái mênh mông mà ngay cả kẻ thù cũng không thể không tỏ lòng khâm phục. Người đó ai cũng biết đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ kính yêu của cả dân tộc Việt Nam ta.
Hồ Chí Minh – Hồ chủ tịch là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc. Người đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, nay dù phải từ biệt thế giới này tôi không có điều gì hối hận. Chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa nhiều hơn nữa” (Hồ Chí Minh 1969). Không những thế Người chính là hình ảnh kiệt xuất của một con người luôn có những đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật – Người là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của nhân dân việt nam và những tư tưởng của người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự hiểu biết lẫn nhau.
19 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 5617 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bài thu hoạch Bác Hồ - Vị cha già kính yêu của dân tộc, là ánh sáng soi đường cho bao thế hệ người dân Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Bộ môn: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
BÀI THU HOẠCH
Đề tài: Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc, là ánh sáng soi đường cho bao thế hệ người dân Việt Nam.
Giáo viên hướng dẫn: ThS Nguyễn Hải Ngọc
Sinh viên thực hiện:
Lớp: MSV:
Lời nói đầu
Thế kỷ XX đầy giông bão mà vĩ đại này đã sản sinh ra những con người vĩ đại. Có một con người mà tiểu sử giống như những trang huyền thoại lung linh ánh sáng, thu hút tình cảm ngưỡng mộ, kính yêu của hàng triệu, hàng triệu trái tim của nhân loại tiến bộ bằng cuộc sống hào hùng, hoạt động phong phú và sự nghiệp to lớn của mình. Có một con người mà với tài năng và đức độ đã trở thành một biểu tượng hoàn thiện tuyệt vời về cả sức mạnh chiến thắng lẫn lòng nhân ái mênh mông mà ngay cả kẻ thù cũng không thể không tỏ lòng khâm phục. Người đó ai cũng biết đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ kính yêu của cả dân tộc Việt Nam ta.
Hồ Chí Minh – Hồ chủ tịch là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc. Người đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, nay dù phải từ biệt thế giới này tôi không có điều gì hối hận. Chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa nhiều hơn nữa” (Hồ Chí Minh 1969). Không những thế Người chính là hình ảnh kiệt xuất của một con người luôn có những đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật – Người là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của nhân dân việt nam và những tư tưởng của người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự hiểu biết lẫn nhau.
Bác chính là vị lãnh tụ vô sản, tấm gương mãi ngời sáng trong lòng của nhân dân Việt Nam nói riêng và toàn thế giới nói chung. Hình ảnh của Bác mãi luôn hiện diện trong con tim hàng triệu đồng bào Việt Nam – những tư tưởng, lời dạy của bác là kim chỉ nam cho hành động của mỗi người. Bác chính là người cha, vị lãnh tụ luôn sống mãi cùng năm tháng và trong tâm tưởng của những đứa con Việt Nam.
“Bác Hồ là vị cha chung,
Là sao Bắc Đẩu, là vầng thái Dương”
Với niềm cảm phục đó, thiết nghỉ việc tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác có thể giúp ta hiểu thêm về di sản đạo đức, con người và những tài sản vô giá mà Người đã để lại, đồng thời thông qua đó những người trẻ như chúng em - những người sẽ nối bước cha anh trên con đường giữ và xây dựng nước có được những thái độ, quan điểm cũng như những phong cách làm việc tốt hơn. Và đây cũng chính là nguyên nhân khiến em chọn đề tài “Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc, là ánh sáng soi đường cho bao thế hệ người dân Việt Nam.”
Table of Contents
Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc, là ánh sáng soi đường cho bao thế hệ người dân Việt Nam.
1. Bác hồ - vị cha già kính yêu
1.1 Xuất thân quê quán
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 nǎm 1890 tại quê ngoại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà nho với tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Ngoài ra Người còn có các tên khác là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Hồ Quang hay Bác Hồ, Cụ Hồ và khi ở chiến khu Việt Bắc ông được người dân địa phương gọi là Ông Ké.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc
Cụ Hoàng Thị Loan
Bà Nguyễn Thị Thanh
Ông Nguyễn Sinh Khiêm
Thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh là cụ ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh nǎm 1862 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng ông sớm có ý chí tự lập, thông minh, ham học.
Nǎm 1901 Nguyễn Sinh Sắc thi Hội và đậu Phó bảng. Tuy đỗ cao nhưng ông vẫn sống rất thanh bạch, khiêm tốn, ghét thói xu nịnh, cam phận của các quan lại trong triều đình Huế. Ông chỉ làm quan trong một thời gian ngắn và sau đó sống bằng nghề dạy học, bắt mạch bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Ông đã đi nhiều nơi, tuyên truyền đoàn kết, kêu gọi nhân dân sống có tình nghĩa thủy chung. Tư tưởng yêu nước tiến bộ, nhân cách cao thượng của ông đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến những người con. Ông qua đời tại thị xã Cao Lãnh (Đồng Tháp) vào nǎm 1929, thọ 67 tuổi.
Thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh là cụ bà Hoàng Thị Loan sinh nǎm 1868 trong một gia đình nho học. Bà là một phụ nữ thông minh, cần cù chịu khó, thương yêu chồng con và giàu lòng nhân ái. Cuộc đời của bà tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại hình ảnh về một phụ nữ Việt Nam sống có tình nghĩa và có ảnh hưởng rất lớn tới tư cách của các con mình. Bà Hoàng Thị Loan qua đời tại Huế nǎm 1901, lúc 33 tuổi.
Chị gái Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Thị Thanh, sinh nǎm 1884. Chị đã tham gia nhiều phong trào yêu nước, nhiều lần bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt giam. Nguyễn Thị Thanh qua đời tại quê hương nǎm 1954, thọ 70 tuổi.
Anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Khiêm, sinh nǎm 1888. Do tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên Nguyễn Sinh Khiêm đã từng bị tù đày nhiều nǎm. Nguyễn Sinh Khiêm qua đời nǎm 1950, thọ 62 tuổi.
Ngoài ra Bác còn có một người em trai tên là Nguyễn Sinh Sin nhưng đã mất lúc được một tuổi sau khi mẹ là cụ bà Hoàng Thị Loan qua đời.
1.2 Tuổi trẻ
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước, thời thiếu niên và thanh niên người đã phải chứng kiến hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, người dân phải tắm mình vào biển khổ, cái bóng đen dày đặt đã bao trùm lấy đất nước ánh sáng tự do dường như không có một chỗ để chiếu vào. Tất cả đã in sâu vào tâm khảm của Người để rồi từ đó một tấm lòng yêu nước sâu sắc đã được khắc ghi trong Bác. Quyết tâm giải phóng dân tộc, mang ánh sáng tự do cho dân tộc càng trỗi dậy hơn theo năm tháng. Và đây cũng chính là ngọn sóng hình mũi thuyền biểu thị bước khởi đầu ra đi tìm đường cứu nước của Người.
1.3 Quá trình hoạt động ở nước ngoài
1.3.1 Thời kì 1919 - 1911
Chính những ngọn sóng hình mũi thuyền đó cứ mãi thôi thúc để rồi cho đến ngày 5 tháng 6 năm 1911 với bí danh Văn Ba người thanh niên Nguyễn Tất Thành Tên gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1901
nhận làm phụ bếp cho tàu buôn đô đốc Latouche-Tréville của hãng Năm Sao, từ bến Nhà rồng đi Mác-xây (Marseille) Pháp. Từ nǎm 1911 đến nǎm 1919, Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều nước ở châu Âu, châu Phi , châu Mỹ, nghiên cứu và học hỏi để quyết định con đường Cứu nước. Một dân tộc làm nên cuộc cách mạng tư sản lừng danh và giương cao ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái tại sao lại đi xâm lược nước khác, bóc lột và hành hạ dân tộc khác. Lần đầu tiên được nghe những từ tiếng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái, tôi đã muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ đó. – và – Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1976, tr. 13.
.
Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), Người quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, Người trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
1.3.2 Thời kì hoạt động ở Pháp
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị[15]. Bản yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành, cùng viết, và được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc[16]. Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc[17] và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó[18].
Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L'Humanité) Pháp, Nguyễn A'i Quốc được đọc Luận cương của V.I Lê nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Sau này nhớ lại niềm sung sướng khi đọc Luận cương của V. I Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Luận cương của V. I Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên nhu đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ.! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam do Nguyễn A'i Quốc gửi đến Hội nghị Véc-xây (Versailles)
Nguyễn A'i Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông Dương tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua (Tours). Tại Đại hội này Người đã cùng với những nhà hoạt động chính trị và vǎn hoá nổi tiếng của Pháp như: Macxen Casanh (Marcel Cachin), Pôn Vayǎng Cutưyariê (Paul Vaillant Couturier)... bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống lại những người cơ hội. Trên diễn đàn của Đại hội, Nguyễn A'i Quốc đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương, kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân các thuộc địa khác. Người đề nghị: "Đảng xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức ... Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa. Chúng tôi thấyrằng việc Đảng xã hội gia nhập Quốc tế thứ ba có nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể là từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa". Cũng tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Sau Đại hội Tua, người cộng sản Việt Nam đầu tiên Nguyễn A'i Quốc bắt tay ngay vào hoạt động nhằm đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân các thuộc địa đấu tranh chống áp bức, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de toutes les colonies) Tuyên ngôn của Hội kêu gọi nhân dân thuộc địa đoàn kết đấu tranh tự giải phóng và nhấn mạnh "Vận dụng công thức của Các Mác chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em. Hội liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em trong công cuộc ấy”. Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ). Lúc này Nguyễn Ái quốc đóng vai trò như linh hồn của tờ báo vừa làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Người chỉ rõ"Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra".
1.3.2 Thời kì hoạt động tại Liên Xô lần thứ nhất
Tháng 6 năm 1923, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng Sản và Đảng Cộng Sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương Đông. Tại đây Người đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), Trong bài phát, Nguyễn Aí Quốc đã tố cáo những thủ đoạn thực dân để biến nông dân thành nô lệ với hai bàn tay trắng. Vì vậy người nông dân không còn đường sống mà phải đấu tranh, họ là lực lượng cách mạng vô cùng to lớn. Kết thúc bài phát biểu Nguyễn Aí Quốc kêu gọi: "Thưa các đồng chí, tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một Quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí". và Người được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Sau đó Người còn được mời chuyên gia của Ban thư ký giúp Hội đồng chuẩn bị nội dung cho các cuộc họp và là chuyên gia về những công việc liên quan đến các thuộc địa. Tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), Nguyễn Aí Quốc đã đề cập vấn đề về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, kêu gọi sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới với cách mạng thuộc địa. Tại phiên họp XXV ngày 3 tháng 7 nǎm 1924 Nguyễn Aí Quốc chỉ rõ: "Trong tất cả các thuộc địa Pháp, nạn nghèo đói đều tǎng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức , thiếu người lãnh đạo. Quốc tế cộng sản phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đườngđi tới cách mạng và giải phóng". Và Người được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
1.3.4 Thời kì hoạt động cách mạng ở Trung Quốc (1924 – 1927)
Cuối năm 1924 Người đã được trở về Châu Á – nơi Người luôn mong đợi để thực hiện lý tưởng, mang ánh sáng tự do đến cho các dân tộc đặc biệt là dân tộc Việt Nam thân thương.
Ngày 11 tháng 11 năm 1924 Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc), lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn.
Trong báo cáo gửi Chủ tịch Đoàn quốc tế cộng sản ngày 18 tháng 12 nǎm 1924, Nguyễn A'i quốc đã thông báo về việc đã tiếp xúc với nhóm những người Việt Nam yêu nước ở Quảng Châu để huấn luyện về phương pháp hoạt động tổ chức và sau ba tháng học xong sẽ trở về Đông Dương, và có một đoàn khác sang. Người nhấn mạnh: "Trong lúc này, đây là biện pháp duy nhất".
Nguyễn A'i Quốc đã cùng một số đồng chí trực tiếp giảng bài cho các lớp huấn luyện. Những bài giảng của Người được tập hợp in thành sách mang tên "Đường Cách mệnh" xuất bản nǎm 1927. Một trong những vấn đề đầu tiên Nguyễn A'i Quốc đặc biệt quan tâm là đào tạo những người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; hiểu lý luận Mác - Lênin; biết đoàn kết và tổ chức nhân dân cùng phấn đấu vì sự nghiệp chung. Phân tích những bài học kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, Nguyễn A'i Quốc nêu rõ cách mạng Việt Nam phải theo gương cách mạng Nga đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc, đánh đổ phong kiến tay sai đem lại ruộng đất cho nông dân.Người nói: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật... Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công phải lấy dân chúng làm gốc, phải có đảng vững bền".
Tháng 6 nǎm 1925, trên cơ sở số cán bộ được huấn luyện, Nguyễn A'i Quốc thành lập Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng", tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 21 tháng 6 nǎm 1925, báo "Thanh niên" ra đời. Đây là tờ báo cách mạng làm nhiệm vụ tuyên truyền giới thiệu về chủ nghĩa Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga; giải thích đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Báo là người tuyên truyền tập thể, người cổ động và tổ chức tập thể, góp phần quan trọng vào việc xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Và cũng trong thời gian này Cùng năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư.
Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liên Xô.
Tháng 5 nǎm 1927, Nguyễn A'i Quốc, rời Quảng Châu, đi Mátxcơva, sau đó đi Béc lin, tham dự Hội nghị Ban chấp hành mở rộng của Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc tại Brúc xen (Bỉ), đi Y' và trở về Xiêm (Thái Lan). Cuối nǎm 1929, Người trở lại Trung Quốc, triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào cầu nǎm 1930.
1.3.5 Những năm 1928, 1929
Mùa thu 1928, Người từ châu Âu đến Thái Lan, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều.
Cuối năm 1929, Người rời Thái Lan sang Trung Quốc.
1.3.6 Thành Lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Sau khi trở lại Trung Quốc năm 1929. Nguyễn Ái Quốc đã bắt liên lạc lại với các tổ chức. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long thuộc Hương Cảng, Người thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam").
Tháng 3 năm 1930, Người trở lại Thái Lan trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
1.3.7 Những năm 1931 – 1933
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Tờ L'Humanité số ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong trạm xá nhà tù tại Hồng Kông đồng thời tố cáo đây là âm mưu của thực dân Pháp câu kết với thực dân Anh nhằm ám sát người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương[21]. Nhưng sau đó nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby[22], Tống Văn Sơ được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932. Sau đó Người đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
1.3.8 Thời kì ở Liên Xô lần thứ hai
Người đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học ở Trường Quốc tế Lenin (1934-1935). Người dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của ban thư ký Dalburo với tên Linov[23]..
1.3.9 Từ năm 1938 đến đầu năm 1941
Năm 1938, Người trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc mùa đông 1938.
1.3.10 Trở về Việt Nam và thời gian người bị gam giữ ở Trung Quốc cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945
Người trở về Việt Nam vào ngày 28 tháng 1 năm 1941 sau 30 năm bôn ba, ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu. Tại đây, Người mở các lớp huấn luyện cán bộ[, cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày... Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền chủ yếu là sách do người dịch và viết về nhiều chủ đề. Tại cuối một cuốn sách như vậy ông ghi "Việt Nam độc lập năm 1945"[29]. Người cho lập nhiều hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội phụ lão cứu quốc, hội nông dân cứu quốc...Tháng 5 năm 1941, hội nghị mở rộng lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp ở Cao Bằng và quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh). Do Người là chủ tọa.
Ngày 13 tháng 8 năm 1942, Người lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân Người sử dụng tên Hồ Chí Minh. Người khai nhân thân là "Việt Nam-Hoa kiều"
Ông bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Người viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943).
Sau khi được trả tự do ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội.
Cuối tháng 9 năm 1944, Người trở về Việt Nam. Người ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. Người trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính chính thống và chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, v