Đề tài Công cuộc đổi mới của Hồ Quý Lý

Trong lịch sử Việt Nam từ khi dựng nước cho đến nay đã có rất nhiều cuộc cải cách, đổi mới nhằn hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước và các chính sách cai trị. Đặc biệt là từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV, qua năm thế kỷ phát triển từ các phương thức sản xuất tiền phong kiến sang phong kiến không phải trải qua một cuộc cách mạng vũ trang nào, nhưng lại qua các cuộc cải cách, đổi mới có hiệu quả. Mà đặc biệt là hai cuộc cải cách (của họ Khúc và nhà Hồ) và hai cuộc đổi mới (từ Tiền Lê sang Lý, từ Lý sang Trần). Cả bốn đều nhằm giải quyết những khủng hoảng xã hội, cũng cố lại bộ máy nhà nước, đẩy mạnh tiến bộ xã hội. Nhưng nếu hai cuộc đổi mới (từ Tiền Lê sang Lý, từ Lý sang Trần) đã thành công mỹ mãn, cuộc cải cách của họ khúc cũng đã dành được những thắng lợi cơ bản, tạo ra được bước phát triển tích cực của xã hội phong kiến Việt Nam, thì cuộc cải cách của Hồ Quý Ly cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV đã thành công một cách hạn chế mà cái hạn chế lớn nhất lại là sự phá hoại của giặc ngoại xâm. Nó để lại một bài học sâu sắc cho hiện tại. Công cuộc đổi mới, cải cách của chúng ta hiện nay đã kế thừa truyền thống của cha ông, rút ra những kinh nghiệm từ lịch sử dân tộc và thế giới, phát huy đến cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, nắm vững quyền dân tộc tự quyết để không ngùng dành thắng lợi. Với sự phân công của giáo viên bộ môn, nhóm chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly”. Nhóm chúng tôi hy vọng qua bài tiểu luận này làm rõ hơn về cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.

docx12 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2011 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Công cuộc đổi mới của Hồ Quý Lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA HỒ QUÝ LÝ LỜI MỞ ĐẦU Trong lịch sử Việt Nam từ khi dựng nước cho đến nay đã có rất nhiều cuộc cải cách, đổi mới nhằn hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước và các chính sách cai trị. Đặc biệt là từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV, qua năm thế kỷ phát triển từ các phương thức sản xuất tiền phong kiến sang phong kiến không phải trải qua một cuộc cách mạng vũ trang nào, nhưng lại qua các cuộc cải cách, đổi mới có hiệu quả. Mà đặc biệt là hai cuộc cải cách (của họ Khúc và nhà Hồ) và hai cuộc đổi mới (từ Tiền Lê sang Lý, từ Lý sang Trần). Cả bốn đều nhằm giải quyết những khủng hoảng xã hội, cũng cố lại bộ máy nhà nước, đẩy mạnh tiến bộ xã hội. Nhưng nếu hai cuộc đổi mới (từ Tiền Lê sang Lý, từ Lý sang Trần) đã thành công mỹ mãn, cuộc cải cách của họ khúc cũng đã dành được những thắng lợi cơ bản, tạo ra được bước phát triển tích cực của xã hội phong kiến Việt Nam, thì cuộc cải cách của Hồ Quý Ly cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV đã thành công một cách hạn chế mà cái hạn chế lớn nhất lại là sự phá hoại của giặc ngoại xâm. Nó để lại một bài học sâu sắc cho hiện tại. Công cuộc đổi mới, cải cách của chúng ta hiện nay đã kế thừa truyền thống của cha ông, rút ra những kinh nghiệm từ lịch sử dân tộc và thế giới, phát huy đến cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, nắm vững quyền dân tộc tự quyết để không ngùng dành thắng lợi. Với sự phân công của giáo viên bộ môn, nhóm chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly”. Nhóm chúng tôi hy vọng qua bài tiểu luận này làm rõ hơn về cuộc cải cách của Hồ Quý Ly. Phần I: TIỀN ĐỀ CỦA CUỘC CẢI CÁCH 1. Sự khủng hoảng của triều đình nhà trần + giai đoạn đầu nhà Trần, thể chế chính trị vững chắc là nhờ “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục”. Vua anh minh, cần mẫn, tôi tận tụy, liêm trung. Chính lệnh “lúc thường thì khoan sức cho dân’. Điều này đã tạo cho nhà Trần một sự hưng thịnh vào giai đoạn đầu. + Từ khi trần dụ tông lên ngôi: Đối với vua thì ăn chơi vô độ khiến triều đình bạc nhược.Vua Dụ Tông sai đào hồ lớn ở vườn ngự, chất đá làm núi, bắt đào kênh thông với sông lớn để lấy nước vào làm chổ vui chơi,… Trộm cướp không trừa ai, cướp bóc cả vua (ví dụ: năm 1366,vua Dụ Tông ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thúy úy Trần Ngô Lang ở hương Mễ Sở, đến canh ba mới về. Khi tới sông Chữ Gia, bị cướp mất ấn báu). Điều này đã làm xuất hiện hàng loạt tên nịnh thần và việc triều chính bị lũng đoạn đã gây ra những biến cố lớn như: Chúa Chiêm là Chế Bồng Nga đem dâng lên vua 10 mâm vàng. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nói dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Vua giận lắm. Quyết ý thân chinh. Phải chăng đây cũng là một nguyên nhân khiến quan hệ Việt - Chiêm càng xấu đi trong giai đoạn cuối Trần. Đồng thời trong triều không có vua càng tạo cơ hội cho bọn nịnh thần lộng hành. Trước hoàn cảnh ấy những những hiền thần đã nhiều lần dâng sớ để khuyên vua có những sự điều chỉnh mà vua không chịu nghe như Chu Văn An khuyên Dụ Tông không nghe bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần…Sớ dâng lên nhưng không dược trả lời nên ông đã trả ấn từ quan về quê. Còn Trần Nguyên Đán thì lui về Côn Sơn trí sĩ để tránh mối họa sau này. Khủng hoảng cung trình cũng đã xẩy ra nghiêm trọng đến hai lần:  Lần thứ nhất là khi Hiến từ Hoàng Thái Hậu đưa Dương Nhật Lễ, con của người làm trò (tên là Dương Khương) lên ngôi. Nhật Lễ tiếm vị, rượu chè dâm dật, hàng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ dương. Nhà trần mất ngôi hơn một năm (từ tháng 6 – 1369 đến tháng 10 – 1370). Đến tháng 10 – 1370, cuộc hội quân của hoàng gia có Nghệ Tông, Trần Nguyên Đán, Cung tuyên Vương Kính cùng công chúa Ngọc Tha…tham gia, đã từ Đại Lại Thanh Hóa kéo về Thăng Long dành lại ngôi vua. Lần thứ hai là sau khi Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành bị tử trận, Đế Hiện lên thay rồi bị phế (Phế Đế). Thuận Tông lên ngôi rồi bị giết. Thiếu Đế lên thay được hai năm, nhà Trần bị diệt. Ngôi vua về tay Hồ Quý Ly. + Sự khủng hoảng kinh tế, văn hóa – xã hội Cuối nhà Trần bộc lộ những mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa yêu cầu tư hữu hóa ruộng đất đã được nhà nước Trần thừa nhận từ đầu thế kỷ XIII (khi nhà Trần cho phép bán ruộng công thành ruộng tư) với chế độ công hữu về đất đai vẫn được bảo tồn nghiêm ngặt. Điều này được thể hiện rõ ở việc bãi lệ “Sa châu tiệt cước” vào năm 1379. Mâu thuẫn giữa sự chiếm hữu lớn về đất đai và sức lao động nô lệ gia đình (gia nô, nô tì của phong kiến) với sở hữu vừa và nhỏ của địa chủ bình dân và địa chủ quan liêu mới phát triển. Chính điều này đã dẫn đến đòi hỏi là sức lao động cần được giải phóng để tạo ra những người lao động tự do. Nhưng hoàn cảnh cuối thời Trần đã không đáp ứng được điều này. Bao trùm nhất là mâu thuẫn giữa kinh tế hàng hóa – tiền tệ đã phát triển đến chừng mực nhất định trong thời thịnh Trần với kinh tế còn bảo lưu phương thức sản xuất châu Á có tính đặc thù Việt Nam là chế độ nô lệ gia đình, chế độ điền trang thái ấp của quý tộc và việc bảo tồn ruộng đất công hữu. Do vua ăn chơi, không quan tâm đến phát triển kinh tế. Đồng thời lại thu thuế nặng nề nhất là vào thời Phế Đế như vào năm 1378 đang có việc dùng binh nhưng kho tàng trống rỗng. Đỗ Tử Bình kiến nghị thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền. Vua đã nghe theo. Trước chỉ có thuế ruộng nay có cả thuế đinh. Đièu này đã làm cho những người nông dân đã khổ nay lại cành khổ hơn.Do đó đã diễn ra rất nhiều cuộc đấu trang của nông dân như khỡi nghĩa Ngô Bệ (khởi nghĩa tồn tại trong 10 năm),  +Khủng hoảng tư tưởng phong kiến: Tư tưởng phong kiến mang nặng tàn dư phương thức sản xuất châu Á lấy phật giáo làm quốc giáo, từng phát huy tác dụng ỏe thời lý, thời thịnh trần nay không còn thích hợp với sự thay đổi của kinh tế - xã hội đang rơi vào khủng hoảng. chế độ phong kiến theo tống nho đang hình thành đã tấn công vào hệ tư tưởng phong kến quý tộc mà nghệ tông đã ra sức bảo vệ. Nghệ tông còn phê phán bọn tống nho có xu hướng phong kiến quan liêu là “bọn học trò mặt trắng” : khoảng năm đại trị, bọn học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép củ của tổ tông thay đổi theo tục phương bắc cả, như về y phục, âm nhạc,…Thật không kể xiết. Nhưng dầu nghệ tông có phê phán thì khổng giáo vẫn ngày càng đóngvai trò quốc giáo. Trong khi đó, phật giáo lại luôn bị các nhà khoa bảng tống nho chỉ trích. Tiêu biểu là sự chỉ trích của trương hán siêu và lê quát. Năm 1354, Trương Hán Siêu đã từng phê phán phật giáo đề cao nho giáo: “chùa bỏ ooiflaij xây, đã chẳng phải ý muốn của ta. Dựng bia rồi khắc chữ, ta biết nói chuyện gì. Ngày nay thánh triều muốn truyền bá phong hóa nhà vua, để chấn hưng phong tục đang bị suy đồi, dị đoan đáng phải truất bỏ, thánh đạo nên được phục hưng. Làm sĩ đại phu, không phải đạo nghiêu thuấn thì không trình bày, không phải đạo khổng tử thì không trước thuật. thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện phật, ta định lừa dối ai đây?” Sự phát triển kinh tế xã hội kể trên đã dẫn đến một tất yếu là phong kiến quan liêu tống nho sẽ thắng phong kiến quý tộc phật giáo. +Yếu tố chủ quan Sử cũ chép lại lại lịch của Hồ Quý Ly không rõ ràng về năm sinh và năm mất, nhưng lại hgi khá đầy đủ những chi tiết về nhân vật Hồ Quý Ly trên chính trường Trần mạt vào cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV.Ông tổ của Quý Ly là Hồ Hưng Dật, người tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc. Từ đời Ngũ Quý (907-959) sang bên ta, lập ấp tại làng Bào Đột thuộc Diễn Châu (Nghệ An) sau chuyển ra Thanh Hóa, làm con nuôi của Lê Huấn. Tháng 3 năm 1371 Hồ Quý Ly được phong làm Khu mật viện Đại sứ. Đến tháng 9 cùng năm lại được phong làm Trung tuyên Quốc thượng hầu. Trong tình đất nước luôn bị Chiêm Thành đánh phá thì yêu cầu đòi hỏi một người có khả năng và quyền lực để nhận lãnh sứ mệnh giúp Vua làm việc nước, chống ngoại xâm và người đó chính là Hồ Quý Ly. Ông xuất hiện như là một người trung hòa trong mâu thuẫn giữa phong kiến quý tộc và phong kiến quan liêu, bởi vì ông vừa có vị trí cao trong hàng ngũ phong kiến quý tộc vừa có vị trí cao trong hàng ngũ phong kiến quan liêu. Là quý tộc ông đang là người có quyền thế nhất trong đám hoàng thân quốc thích, có hai bà cô là Hoàng hậu vợ Minh Tông, vợ Quý Ly lại là Công chúa; là quan liêu, ông thuộc giới quan liêu ngoại tộc, có tinh thần cải cách, đã có một số thể nghiệm được giới quan liêu chấp nhận. Họa ngoại xâm Bắt đầu từ việc triều Minh coi Đại Việt là cảu mình: Năm 1370, cho Diêm Nguyên Phục đến tế thần núi Tản Viên và các thủy thần sông Lô…Vào kinh thành nước ta làm lễ tế xong khắc bài văn vào bia đá ghi việc đó. Tiếp theo là các yêu sách như “Đòi Đại Việt cấp lương cho binh lính Minh đóng ở Lâm An (Vân Nam). Lần này vua Trần sai vận tải 5000 thạch lương đưa đến đầu địa phận huyện Thụy Vĩ (thuộc tỉnh Lào Cai) giao nộp. trong chuyến vận tải này, quan quân ta vì nhiễm lam sơn chướng khí, bị bệnh chết khá nhiều. Đến năm 1385, nhà Minh lại sai sứ sang đòi ta nộp 20 nhà sư. Vua ta phải lo tuyển đủ để đưa sang Kinh Lăng giao nộp. Lập lại âm mưu của nhà Nguyên một trăm năm trước, nhà Minh lại đòi mượn đường nước ta đi đánh Chiêm Thành và đòi nhà Trần phải cung cấp đầy đủ cho chúng 50 thớt voi, đặt các cung trạm dọc đường từ phủ Nghệ An trỏ ra, ở mỗi trạm đều phải có sẵn lương thảo cho voi trên đường sang Vân Nam.  Đụng độ với Chiêm Thành diễn ra dồn dập chưa từng có. Nếu từ cuộc Trần Anh Tông đưa quân chinh phạt người Chiêm “phản trắc” năm 1312 đến hết năm 1341 khi Dụ Tông lên ngôi, trong khoảng 30 năm chỉ có hai lần phải đi chinh phạt Chiêm Thành (một của Huệ Vũ Vương vào năm 1318 và của Huệ Túc Vương vào năm 1326), thì từ cuộc cử quân đi đánh Chiêm Thành nhằm đưa Chế Mỗ về nước nhưng không thành công vào năm 1353 trở đi đến cuộc đánh thắng Chế Bồng Nga vào năm 1390, trong khoảng gần 40 năm mà đã có tới mười sáu lần quân Đại Việt đụng độ với quân Chiêm Thành. Trong đó có ba lần quân Chiêm Thành đã đánh vào tận thành Thăng Long. Hai lần vua tôi phải bỏ thành lánh nạn (1371,1383) – một điều chưa bao giờ diễn ra trong quan hệ Đại Việt – Chiêm Thành. Mâu thuẫn sâu sắc giữa nho sĩ và quý tộc phong kiến. Tầng lớp Nho sĩ lúc này đang phát triển, trong khi quý tộc phong kiến lại kìm hãm sự phát triển đó. Quý tộc phong kiến nắm một lượng lớn ruộng đất và nông nô, kìm hãm sự phát triển của xã hội Phần II: NỘI DUNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH I. Cải cách hành chính Cùng với quá trình đi lên con đường chính trị Hồ Quý Ly từng bước thực hiện những cải cách hành chính trên một số lĩnh vực Về tổ chức hành chính: Từ năm 1375, khi được giao chức tham mưu quân sự, Quý Ly đã đề nghị chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyệ tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì không cứ là tôn thất, đều cho làm tướng coi quân. Từ năm 1397, Hồ quý Ly đã đổi một số lộ ở xa thành trấn như: Thanh Hóa đổi thành trấn Thanh Đô, Quốc Oai thành trấn Quãng Oai, Diễn Châu đổi thành trấn Vọng Giang,… và nâng một số châu lên thành lộ. Ở các lộ thống nhất việc chỉ huy quân sự và hành chính trong tay những quan chức gọi là Đô hộ, Đô thống, Tổng quản do các đại thần nắm. Các lộ vẫn đặt chánh, phó An phủ sứ như cũ, ở phủ đặt chánh, phó Trấn phủ như cũ; ở châu đặt Thông phán và Thiên phán; ở huyện đặt lệnh úy và chủ bạ, bỏ đại tiểu, tư xã và giữ giáp như cũ. Ở các trấn việc việc cai trị nặng nề mang tính chất quân sự. Để tăng cường giao thông liên lạc giữa trung ương và địa phương, các hệ thống trạm dịch được bổ sung. Để bảo đảm an ninh ở mỗi lộ có đặt chức liêm phóng sứ- một chức quan chuyên trông coi việc dò xét tình hình, trông coi bộ máy mật thám và dò la tin tức. Đồng thời quy định chế độ làm việc: “lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Phàm những việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng dều làm gộp một sổ của lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng mà kiểm xét. Khu vực quanh thành Thăng Long được Hồ Quý Ly đổi thành Đông Đô lộ do phủ đô hộ cai quản. Hồ quý Ly cho dời đô về An Tôn (Tây Đô). Cùng năm này Hồ Quý Ly cho nhân dân xây kinh đô mới ở An Tôn( Vĩnh Tôn- Thanh Hóa), để lại cho đời sau một công trình kiến trúc lớn, tục gọi là thành nhà Hồ. Hồ Quý Ly cũng định cách thức mũ và phẩm phục của các quan văn võ: Nhất phẩm màu áo tía, nhị phẩm áo màu đại hồng, tam phẩm áo màu hoa đào, tứ phẩm màu lục, ngũ phẩm trở xuống màu xanh biếc. Chế độ Thái thượng hoàng được bãi bỏ cuối thời trần, nhưng đến khi nhà trần thành lập, năm 1404 Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương và tự xưng là Thái Thượng hoàng. Về hành chính địa phương của nhà Hồ cơ bản giống Nhà Trần: Không theo nề nếp nhà tiền Lê, Lý, Trần phong tặng quan tước cho quý tộc tôn thất. Không đưa nhiều quý tộc nhà Hồ vào bộ máy nhà nước. Hồ Hán Thương “cấm người tôn thất, cung nhân không được xưng quý hiệu, người vi phạm bị trị tội” II. Cải cách quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, chủ yếu là quan hệ ruộng đất bằng chính sách “hạn điền” Mục tiêu của hạn điền là hạn chế chiếm hữu lớn về đất đai của quý tộc phong kiến: Chiếm hữu lớn về ruộng đất của nhà Trần vừa là do phân phong, vừa là do chiếm dụng: “Trước kia các nhà tôn thất thường sai nô tỳ của mình đắp đê bồi ở bờ biển để ngăn nước mặn, sau hai, ba năm khai khẩn thành ruộng, cho họ lấy lẫn nhau và ở ngay đấy, lập ra nhiều đất tư trang” Nay “Năm 1397, tháng 6 (âm lịch) xuống chiếu hạn chế danh điền (tức ruộng có người đứng tên”. Riêng đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế. Đến thứ dân thì số ruộng đến 10 mẫu. Người nào có nhiều thì tùy ý được lấy ruộng để chuộc tội. Bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước”. “Hạn điền đánh vào nền tảng kinh tế của quyền uy chính trị của quý tộc phong kiến. Tuy vậy cải cách này cũng chỉ là nửa vời. Bởi vì trong khi xã hội đang có yểu cầu tư hữu hóa ruộng đất để phát triển kinh tế hàng hóa tiền tệ và giải quyết nạn thiếu đói, thì số ruộng đất ngoài 10 mẫu được lấy ra lại bị xung công “hiến cho nhà nước” biến thành quan điền” Tuy việc đưa ruộng đất rút ra từ “hạn điền” vào sở hữu chung của nhà nước phong kiến quan liêu như vậy là tiến bộ hơn sở hữu lớn của phong kiến quý tộc, nhưng nó cũng chỉ có tác dụng củng cố quyền lực Nhà nước chứ không phát triển được kinh tế, cải thiện được dân sinh, tăng cường được khối đoàn kết dân tộc chống ngoaị xâm. Phần náo đó là sự duy trì tính chất công hữu về ruộng đất của phương thức sản xuất châu Á mà đến thế kỷ XV đã quá lỗi thời. III. Cải cách quan hệ sở hữu sức lao động bằng biện pháp “hạn nô” Chính sách hạn nô được ban hành sau chính sách hạn điền 4 năm tức là vào năm 1401. Chính sách hạn nô được tiến hành như sau: Năm 1401, Hán Thương lập phép hạn chế gia nô: “Chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải dâng lên nhà nước. Mổi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư ba đời. Nô người nước ngoài thì không theo lệ này. Các nô đều thích vào trán để đánh dấu,…” Mục tiêu của “hạn nô” cũng đồng nhất với “hạn điền” là đánh vào cả thế và lực của quý tộc phong kiến, như sử cũ ghi rõ: “Bấy giờ bọn sĩ đại phu tham phú quý, mong được lòng họ Hồ, đâng thư khuyên giết hại con cháu nhà Trần, giảm bớt số ruộng và nô để nén bớt thế lực của họ, như bọn Hoàng Hối Khanh, Nguyễn Hy Chu, Đồng Thức, còn lại thì nhiều vô kể” Đây không chỉ giảm ưu thế về kinh tế, mà còn làm giảm sức mạnh quân sự của quý tộc. Sức mạnh quân sự của gia nô, nô tì thời Trần đả được biểu lộ trong cuộc chiến thắng Nguyên Mông, nay quý tộc có thể dùng sức mạnh đó đánh vào “kẻ tiếm ngôi” là Hồ Quý Ly”, buộc họ Hồ phải đề phòng. Mặt khác cũng để hạn chế sự rối loạn xã hội bởi vì trong khủng hoảng, nhiều gia nô đã bỏ chủ đi theo nông dân khởi nghĩa,.. Nhưng cũng như hạn điền, “hạn nô” cũng là chính sách nửa vời. Đáng lẻ “hạn nô” là để giải phóng sức sản xuất xã hội, thì đây lại đưa nô xung công và xung vào quân dịch để cũng cố chế độ phong kiến quan liêu. Như vậy là vẫn duy trì tàn dư của phương thức sản xuất châu Á về công hữu hóa sức lao động, hạn chế sự phát triển kinh tế hàng hóa- tiền tệ. Cũng có thể nói như ngôn ngữ ngày nay là “hạn nô” đúng ở đầu vào nhưng sai ở đầu ra. IV. Cải cách về quân sự Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây thành, đóng thuyền chiến, v.v. Ông thường hỏi các quan: Ta làm thế nào cho có 100 vạn quân để dánh giặc Bắc?  Để có nhiều quân, năm 1401 Hồ Quý Ly lập ra hộ tịch bắt mọi người cứ 2 tuổi trở lên phải kê khai ai ẩn náu phải phạt. Hộ tịch làm xong, số người từ 15 tuổi đến 60 hơn gấp mấy lần trước. Quân số do vậy tăng thêm nhiều. Năm 1402, xét duyệt quân ngũ, chọn tráng đinh, cho người nghèo sung vào quân trợ dịch sau đó đổi thành quân bồi vệ,… Hồ Quý Ly đặc biệt chú trọng luyện tập thủy binh để giữ mặt sông mặt biển. Ông cho đóng những con thuyền lớn bên trên lát ván để đi lại dễ dàng, khoang dưới cho người chèo chống rất lợi hại. ở các cửa bể và những nơi hiểm yếu trên các sông lớn, ông cho đóng cọc, hình thành những trận địa mai phục quy mô. Năm 1405, chấn chỉnh lại tổ chức quân đội. Về biên chế quân đội, Quý Ly phân chia Nam Bắc gồm 12 vệ, Đông Tây phân ra 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân có 30 đội, trung quân 20 đội Mỗi doanh có 15 đội, mỗi đoàn có 10 đội. Ngoài ra còn 5 đội cấm vệ quân. Tất cả do một Đại tướng thống lĩnh. Ông còn cho xây dựng thành trì mới, xây dựng kinh đô ở An Tôn (Vĩnh Tôn- Thanh Hóa) Năm Ất Dậu (1405) sau những năm tháng ngoại giao mềm mỏng, chịu lép không kết quả, cha con Hồ Quý Ly phải đứng trước thử thách hiểm nghèo: Đối phó với cuộc xâm lược của nhà Minh. Hồ Quý Ly giao cho con cả là Hồ Nguyên Trừng chỉ huy đắp thành Đa Bang, lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc (Việt Trì) và đưa quân đóng giữ các nơi. Nhưng đúng như Hồ Nguyên Trừng nói: "Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo mà thôi." Chính vì họ Hồ không được lòng dân nên khi Trương Phụ và Mộc Thạnh đem 20 vạn bộ binh kỵ binh và hàng chục vạn phu dịch sang xâm lược nước ta, triều Hồ đã thất bại. Trước các mũi tiến công của địch, đội quân nhà Hồ có chặn đánh ở một vài nơi rồi rút về giữ phòng tuyến Nam sông Hồng. Quân Minh thừa cơ hội đã tập trung binh lực vượt sông Hồng đánh chiếm thành Đa Bang. Cuối năm Bính Tuất (20-1-1407) thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ cũng tan vỡ nhanh chóng. Từ Đa Bang ngày 22-1-1407, quân địch tràn xuống chiếm kinh thành Thăng Long. Quân nhà Hồ lại một lần nữa rút lui xuống miền hạ lưu sông Hồng. Và sau một vài trận phản công thất bại, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đem theo bọn thuộc hạ chạy ra biển rồi vào Thanh Hóa. Đến Lỗi Giang (Mã Giang) quân Minh đuổi kịp, quân Hồ lại một phen tan tác. Tướng Hồ là Ngụy Thức thấy thế nguy cấp, bèn tâu: Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ hạ tự đốt đi mà chết còn hơn. Hồ Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An. Quân Minh tiếp tục đuổi theo, đến Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt. Lúc đó là tháng 6 năm Đinh Hợi (1407). Có thuyết nói ông bị nhà Minh sát hại khi sang Yên Kinh (Bắc Kinh), có thuyết lại nói ông bị đày làm lính ở Quảng Tây. Nhà Hồ làm vua từ năm Canh Thìn (1400) đến năm Đinh Hợi (1407), được trọn 7 năm thì sụp đổ. Việt Nam lại nằm trong vòng đô hộ nhà Minh. V. Cải cách văn hóa, giáo dục Hồ Quý Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên "vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước. Về mặt xã hội, ông thiết lập sở "Quản tế" (như ty y tế ngày nay). ở các lộ, ông đều lập một kho lúa gọi là "Thường bình", lấy tiền công mua lúa trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng. Khuyến khích sử dụng chữ Nôm, tự mình làm thơ chữ Nôm và giải nghĩa Kinh thi bằng chữ Nôm. - Phát huy tác dụng Nho giáo: Năm 1392 làm sách Minh Đạo (“Con đường sáng”) 14 thiên (cho Chu Công là tiên thánh, Khổng Tử là tiên sư", nêu ra “bốn chỗ đáng ngờ trong sách Luận ngữ". Năm 1395 dịch thiên "Vô dật" (Không lười biếng) trong Kinh thư ra chữ Nôm nếu tấm gương của các vua hiền thời xưa để dạy vua Thuận Tông. - Đề cao lối học thực dụng cần thiết cho ca chế quan liêu : Phê phán những người chỉ biết chắp nhặt văn chương, tuy học rộng nhưng viễn vông