Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, châu Á thu hút gần một nửa tổng số vốn nước ngoài dành cho những nước đang phát triển. Trong đó các nền kinh tế Đông Nam Á có tỷ lệ lợi tức cao đặc biệt có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm tỷ lệ hoàn vốn cao. Kết quả là nhiều nền kinh tế trong khu vực thu nhận được một lượng lớn "tiền nóng" (hot money) và kinh qua một thời kỳ giá tài sản tăng vọt mạnh mẽ. Cùng lúc, nhiều nền kinh tế khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Hàn Quốc có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng, đạt mức 8–12% tổng sản lượng quốc nội (GDP) liên tục trong khoảng thời gian cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ XX, và được xem là những “Con hổ Đông Á” lúc bấy giờ.
21 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 11681 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Diễn biến và nguyên nhân khủng hoảng tài chính 1997 - 1998, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ - LUẬT
BỘ MÔN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-------o0o-------
Môn học: Tài chính quốc tế
Đề tài:
Diễn biến và nguyên nhân khủng hoảng tài chính 1997 - 1998
GVHD: TS. Lê Tuấn Lộc
Nhóm thực hiện:
1.Ngô Thị Mỹ Linh K074020319
2.Bùi Thị Hải Nhạn K074020340
3.Trần Minh Phú K074020350
4.Đặng Thị Thanh Thi K074020364
5.Đỗ Thị Ngọc Thịnh K074020367
6.Cao Thị Minh Trang K074020373
Mục lục
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………. 2
I.Diễn biến cuộc khủng hoảng …………………………………………………………. 3
1. Tình hình tại Thái Lan ……………………………………………………………….. 3
a. Những năm 80 của thế kỷ XX ……………………………………………………….. 3
b. Đầu năm 1997 ……………………………………………………………………….. 3
2. Diễn biến cụ thể tại các nước ………………………………………………………... 7
2.1 HongKong ………………………………………………………………………….. 7
2.2 Hàn Quốc …………………………………………………………………………… 7
2.3 Malaysia ……………………………………………………………………………. 8
2.4 Indonesia …………………………………………………………………………… 8
3.Hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính đến các nền kinh tế ………………………… 9
II.Nguyên nhân cuộc khủng hoảng …………………………………………………..... 10
1. Nguyên nhân chủ quan ……………………………………………………………... 10
1.1 Nền kinh tế vĩ mô yếu kém đưa đến sự bùng nổ tín dụng và
tài khoản vãng lai thâm hụt …………………………………………………………… 10
1.2 Chế độ tỷ giá không phù hợp xu thế ……………………………………………… 11
2. Nguyên nhân khách quan ………………………………………………………….. 12
2.1 Sự tăng lên cùa dòng vốn nước ngoài ……………………………………………. 12
2.2 Thị truờng thuơng mại toàn cầu giảm sút và
những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới ……………………………………………. 14
2.3 Hoạt động tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt ………………………………….. 15
III/ Bài học kinh nghiệm ……………………………………………………………… 16
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………… 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………. 20
MỞ ĐẦU
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, châu Á thu hút gần một nửa tổng số vốn nước ngoài dành cho những nước đang phát triển. Trong đó các nền kinh tế Đông Nam Á có tỷ lệ lợi tức cao đặc biệt có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm tỷ lệ hoàn vốn cao. Kết quả là nhiều nền kinh tế trong khu vực thu nhận được một lượng lớn "tiền nóng" (hot money) và kinh qua một thời kỳ giá tài sản tăng vọt mạnh mẽ. Cùng lúc, nhiều nền kinh tế khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Hàn Quốc có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng, đạt mức 8–12% tổng sản lượng quốc nội (GDP) liên tục trong khoảng thời gian cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ XX, và được xem là những “Con hổ Đông Á” lúc bấy giờ. Đây là những thành quả hết sức ấn tượng đã được nhiều viện nghiên cứu kinh tế trên thế giới hoan nghênh bao gồm cả Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank), nó đuợc biết đến như một phép lạ của kinh tế Đông Nam Á.
Tuy nhiên chỉ trong vòng 2 năm từ 1997 đến 1998, cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á (bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan) đã ảnh hưởng xấu đến các nền kinh tế ở Châu Á bao gồm các thị trường chứng khoán, các trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác. Nạn nhân của cuộc khủng hoảng này không ai khác chính là những “Con hổ Đông Á”. Vậy điểu gì đã tạo nên thương tích trên những “Con hổ Đông Á” ấy?
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997 – 1998
I/ DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG:
1.Tình hình tại Thái Lan:
a.Những năm 80 của thế kỉ XX:
Giai đoạn này Thái Lan nổi lên như một nền kinh tế năng động nhất Châu Á. Từ 1985 đến 1995, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan đạt 8,5% hàng năm, mức độ lạm phát trung bình hàng năm 5% (so sánh trong cùng thời kì kinh tế Mỹ tăng trưởng 1,3% và lạm phát 3,2%). Tăng trưởng kinh tế rất nóng do sự bùng nổ đầu tư vào kinh doanh nhà xưởng, bất động sản, cơ sở hạ tầng du lịch.
Nhu cầu về bất động sản tăng rất nhanh tại Bangkok, văn phòng làm việc và các tòa nhà chọc trời mọc lên khắp nơi trên thành phố. Các tổ chức tài chính tiếp tục cho các công ty kinh doanh bất động sản vay vốn vì giá bất động sản liên tục tăng.
Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cũng trong thời gian này, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh, cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
b.Đầu năm 1997:
Sự bùng nổ về xây dựng nhà ở và văn phòng kinh doanh đã lên tới đỉnh điểm khi lượng cung vượt quá cầu. Ước tính 365.000 căn hộ bỏ trống ở Bankok vào cuối năm 1996, cùng với 100.000 căn hộ khác sẽ được đưa vào sử dụng năm 1997 đã làm cho cung vượt xa cầu trên thị trường bất động sản
Trong thời gian đó, bùng nổ đầu tư của Thái Lan vào cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, khu thương mại..làm tăng lượng hàng nhập khẩu với tỷ lệ cao chưa từng thấy. Để xây dựng Thái Lan phải nhập các thiết bị đắc tiền,vật liệu từ Mỹ, Châu Âu, Nhật. Kết quả tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán thâm hụt mạnh trong suốt giữa những năm 90. Trong giai đoạn này xuất khẩu tăng nhưng nhập khẩu càng tăng nhanh hơn . Trong năm 1995 thâm hụt cán cân thanh toán là 8,1% so với GDP.
Lúc này, chính phủ quyết định thực hiện việc tăng lãi suất. Cũng trong thời gian đó các công ty cho vay tài chính cũng lần lượt tuyên bố phá sản vì không có khả năng trả nợ nước ngoài, nợ xấu trên thị trường bất động sản vì thế ngày càng tăng lên và tăng hơn 30 tỷ trong thời gian này.
Trên đây là những chuyển biến từ nên kinh tế Thái Lan, điều tương tự cũng đã xảy ra với các nền kinh tế khác như Singapore, Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc, HongKong …
Như vậy vấn đề của nền kinh tế Thái Lan lúc này là:
Cán cân thanh toán thâm hụt dẫn đến việc các nhà đâu tư dự kiến rằng tình trạng phá giá đồng nội tệ sẽ diễn ra. Tức là, tỉ giá cố định sẽ không được giữ nữa (đồng Baht sẽ giảm giá mạnh) vì vậy nhiều công ty mua Dollar vào để trả nợ khi đáo hạn còn các nhà đầu cơ thì vay Baht để mua USD nhằm thu lại lợi nhuận. Điều này khiến cho đồng Baht bị tấn công đầu cơ quy mô lớn vào ngày 14/05/1997.
Sự tăng lãi suất của ngân hàng làm nhiều công ty tài chính bị sụp đổ
Trước những sức ép trên, Chính phủ Thái Lan tuyên bố ko phá giá đồng nội tệ, và ban đầu dùng dự trữ ngoại tệ để bảo vệ tỷ giá nhưng chỉ có thể duy trì trong vòng 1 tháng.
Sau đó đồng Baht được thả nổi vào ngày 02/07/1997 và ngay lập tức mất giá 10%, rồi giá trị tiếp tục giảm xuống sau đó (lên tới hơn 50%). Vào đầu năm 1997, tỷ giá giữa đồng Baht và USD là 25 Baht đổi 1 USD, nhưng đến tháng 1 năm 1998, tỷ giá này đã giảm xuống tới mức 56 Baht mới đổi được 1 USD.
Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD.
Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.
Cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra khiến kinh tế Thái lan suy sụp, nguy cơ lan ra các nước khác cùng khu vực là rất cao. IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan vào ngày 11/8. Đến ngày 20/8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
Tuy nhiên, khủng hoảng vẫn nhanh chóng lan ra Hàn Quốc, Malaysia và Indonesia. Đồng Ringgit (Malaysia) và Rupiah (Indonesia) đều chịu sức ép và sau cùng đều bị phá giá. Đồng won Hàn Quốc, do cơ chế tỷ giá linh hoạt, nên đã mất giá từ năm 1996.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa chính thức (nội tệ/USD)
Hàn Quốc (Won) Thái Lan (Baht) Indonesia (Rupiah)
Malaysia (Ringgit) Philippines (Peso) Singapore (S-dollar)
Nguồn: NHTG, “World Development Indicators”, 2002.
Chỉ số tỷ giá hối đoái với USD
Dòng vốn ngắn hạn đã chảy vào các nước Đông Á, giờ ồ ạt chảy ra. Cả các nhà đầu tư đều muốn chuyển vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từ chối đảo nợ và ngưng cho vay mới.
Các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài. Riêng trong năm 1997, hơn 20 tỷ USD ròng được đưa ra khỏi 5 nước Đông Á chịu khủng hoảng, trong khi trong năm 1996 vẫn còn nhận được gần 66 tỷ USD.
Thị trường bất động sản tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia ...sụp đổ.
Hình 8: Chỉ số giá cao ốc văn phòng tại Thái Lan và Indonesia
Nguồn: Marcus Miller và Pongsak Luangaram (1998)
Chỉ số chứng khoán tụt giảm mạnh ở hầu hết các nước Đông Á.
Chỉ số giá chứng khoán
Nguồn: IMF, “World Economic Outllook”, 12/1997.
2.Diễn biến cụ thể tại các nước:
2.1 HongKong:
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ, vì vậy đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công
Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ.
Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%.
Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ.
Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ).
Cuộc khủng hoảng này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ HongKong và bởi sự sụp đổ của các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.
Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.
2.2 Hàn Quốc:
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty, tập đoàn lớn nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn.
Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá.
Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách thắt chặc tiền tệ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.
2.3 Malaysia:
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sự giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai.
Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
2.4 Indonesia:
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%.
Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá.
IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính thắt chặt theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động.
Theo thống kê, trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.
3.Hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính đến các nền kinh tế:
Hàng loạt các ngân hàng, công ty tài chính thua lỗ nặng nề và lâm vào tình trạng phá sản, giải thể, sáp nhập trong khoảng thời gian từ 1/4/1997 đến 31/3/1998.
Kinh tế suy thoái, tốc độ tăng trưởng giảm sút thậm chí bị âm (-) trầm trọng.
Tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt, chỉ riêng Thái Lan, sau khủng hoảng đã khiến 2 triệu người mất việc làm, tỷ lệ thất nghiệp Philippines từ 9,5% (năm 96) tăng lên 10,4% (năm 97), tại Hàn Quốc từ 2,5 (năm 97) tăng vọt lên 8,6% (tháng 7/98).
Thu nhập bình quân đầu người sụt giảm mạnh, cho đến năm 2002 vẫn chưa thể hồi phục bằng mức của năm 1996.
SO SÁNH MỨC TNBQ/NGƯỜI NĂM 1996 VÀ NĂM 2002
Sự rút vốn ồ ạt của các nhà đầu tư, người cho vay trong và ngoài nước khiến nguồn vốn tín dụng cạn kiệt, thị trường chứng khoán trầm lắng xảy ra ở hầu hết các nước Đông Á.
Khủng hoảng tiền tệ dẫn đến khủng hoảng xã hội và khủng hoảng chính trị. Điều này dẫn đến việc ông Suharto buộc phải từ chức tổng thống Indonesia vào giữa năm 1998.
III/ NGUYÊN NHÂN CUỘC KHỦNG HOẢNG:
Như vậy nhìn vào diễn biến trên ta có thể thấy được nguyên nhân của cuộc khủng hoảng xuất phát từ các yếu tố chủ quan và khách quan:
1.Nguyên nhân chủ quan:
1.1 Nền kinh tế vĩ mô yếu kém đưa đến sự bùng nổ tín dụng, tài khoản vãng lai thâm hụt:
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nên cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Quá trình toàn cầu hóa các thị trường tài chính đã diễn ra với tốc độ chóng mặt. Chỉ riêng giai đoạn từ 1990-1997 , vốn tư nhân đưa vào các nước đang phát triển đã tăng hơn 5 lần, từ 42 triệu USD năm 1990 tới 256 triệu USD năm 1997. Trong khi thương mại thế giới chỉ tăng gần 5%/năm thì dòng vốn tư nhân tăng gần 30%/năm. Những hình thức huy động vốn nhanh chóng nhất như vay nợ từ các ngân hàng thương mại và đầu tư gián tiếp chính là những yếu tố tạo nên tốc độ tăng trưởng cao trên về luồng vốn.
Khu vực Đông Á với sự thành công trong những năm 70, 80 của thế kỷ này trở thành địa điểm lý tưởng cùng với sự kết hợp các yếu tố như mức tăng trưởng nhanh, tỷ lệ nợ thấp và quản lý tốt kinh tế vĩ mô đã thu hút vốn đầu tư nước ngoài tựa như một thanh nam châm. Tuy nhiên, tăng trưởng nhanh, đô thị hóa và công nghiệp hóa cùng khối lượng vốn ồ ạc đổ vào đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mới và khó khăn đối với sự phát triển của các nước này. Tình trạng tăng trưởng nhanh trong điều kiện thiếu các thị trường tài chính và thị trường vốn đủ mạnh và có sự tham gia rộng rãi của chính phủ, làm cho các khu vực tài chính và các tập đoàn thường phải đầu tư dài hạn bằng nguồn vốn vay nợ ngắn hạn. Điều này đưa đến sự tích tụ các khoản nợ ngắn hạn đối với nước ngoài phải trả. Trước tình hình này chính phủ các nước này đã đưa ra chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm loại bỏ ảnh hưởng của dòng vốn vào và mở rộng tín dụng đã làm tăng lãi suất trong nước cũng như tạo ra sự chênh lệch về lãi suất giữa trong nước và ngoài nước và vô tình khuyến khích các nhà đầu tư vay vốn từ nước ngoài để đầu tư vào trong nước dẫn đến sự bùng nổ tín dụng trong nước góp phần làm thâm hụt tài khoản vãng lai tăng lên.
Thêm vào đó chúng ta cần xem xét và thấy rõ rằng các quy chế cần thiết để quản lý sự hòa nhập tài chính toàn cầu đã không bắt kịp với luồng vốn vào. Như đã biết khi dòng vốn đi vào thì vai trò của trung gian tài chính quốc tế ngày càng quan trọng. Đầu tư vào lĩnh vực có tỷ suất hoàn vốn cao đối với những người vay có độ tín nhiệm cao thì dòng vốn đầu tư này sẽ có tiềm năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Đông Á. Thực tế lại đem đến điều ngược lại. Các doanh nghiệp tiếp nhận vốn nước ngoài thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng không đưa ra những quy định rõ ràng và nghiêm khắc cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài. Hầu hết luồng vốn đầu tư nước ngoài là ngắn hạn nhưng các doanh nghiệp lại dùng vào các dự án dài hạn tỷ suất sinh lời thập. rủi ro cao. Thêm vào đó là tâm lý ỷ lại vào sự bảo trợ ngầm của chính phủ (mặc dù chính phủ không tuyên bố) nên các ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay vốn và tin rằng bảo hiểm rủi ro là không cần thiết trong thời kỳ này.
1.2 Chế độ tỷ giá không phù hợp xu thế:
Nếu yếu kém vĩ mô là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng thì các chính sách “neo giá” giữa các đồng tiền khu vực với đồng USD, tạo nên một hệ thống tỷ giá khiên cưỡng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc phá giá hàng loạt các đồng tiền khu vực. Mặc dù khởi phát từ việc thả nổi đồng baht Thái Lan dấn đến hiệu ứng lan tỏa sang các đồng Peso, Ringgit và Rupiah, nhưng trong thực tế trong chừng mực nào đó,các đồng nội tệ này đã bị giảm giá trước xu hướng ngày càng tăng của đồng USD.
Xét về phương diện lý thuyết, chế độ tỷ giá hối đoái cố định theo hệ thống Bretton Woods, có ý nghĩa tích cực trong việc ổn định hóa đồng tiền nội tệ và hỗ trợ cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá nhiều vào tỷ giá cố định trong điều kiện đồng nội tệ trên thực tế bị giảm giá so với đồng tiền mạnh khác cũng như cơ cấu kinh tế mất cân đối lớn dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. Đáng lẽ ngay từ năm 1996, khi những triệu chứng thâm hụt tài khoản vãng lai xuất hiện, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác phải thực hiện chính sách thả nổi đồng nội tệ, trả lại giá đích thực của nó, kết hợp với chính sách thắt chặt tài chính, chắc chắn nguy cơ khủng hoảng bị dập tắp. Thay vì chính chính sách kìm giữ một cách giả tạo đồng nội tệ để thu hút vốn nước ngoài Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát nhằm bù đắp lỗ hỏng của tài khoản vãng lai và kiềm chế lạm phát.
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
2.Nguyên nhân khách quan:
2.1 Sự tăng lên cùa dòng vốn nước ngoài:
Từ năm 1994 đến 1997, lượng vốn tư nhân chảy vào các nuớc