Bước vào thời cận đại, sau các cuộc phát kiến địa lý của người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Nhiều vùng đất mới trên thế giới được người châu Âu phát hiện trong đó có châu Á là một trong những châu lục phong phú về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên.
Đây là những điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược. cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thị trường là nhu cầu cấp thiết và là nơi chủ yếu để cung cấp nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ. Vì vậy mà chủ nghĩa thực dân phương Tây chạy đua, cạnh tranh gay gắt trong việc xâm lược và đặt ách thống trị ở các quốc gia châu Á. Song song với quá trình xâm lược của thực dân phương Tây là phong trào đấu tranh của nhân dân các nước châu Á để bảo vệ độc lập và chủ quyền của dân tộc mình.
Tuy nhiên mỗi dân tộc mỗi quốc gia tùy theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cũng như phong trào đấu tranh của các giai cấp trong xã hội mà việc lựa chọn đường lối đấu tranh, hình thức đấu tranh, giai cấp lãnh đạo trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cho phù hợp và ở mỗi nước cũng có sự khác nhau.
8 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4221 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giai cấp tư sản trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Châu Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIAI CẤP TƯ SẢN TRONG PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC Ở CHÂU Á
A.MỞ ĐẦU
Bước vào thời cận đại, sau các cuộc phát kiến địa lý của người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Nhiều vùng đất mới trên thế giới được người châu Âu phát hiện trong đó có châu Á là một trong những châu lục phong phú về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên.Đây là những điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược. cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thị trường là nhu cầu cấp thiết và là nơi chủ yếu để cung cấp nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ. Vì vậy mà chủ nghĩa thực dân phương Tây chạy đua, cạnh tranh gay gắt trong việc xâm lược và đặt ách thống trị ở các quốc gia châu Á. Song song với quá trình xâm lược của thực dân phương Tây là phong trào đấu tranh của nhân dân các nước châu Á để bảo vệ độc lập và chủ quyền của dân tộc mình.Tuy nhiên mỗi dân tộc mỗi quốc gia tùy theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cũng như phong trào đấu tranh của các giai cấp trong xã hội mà việc lựa chọn đường lối đấu tranh, hình thức đấu tranh, giai cấp lãnh đạo trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cho phù hợp và ở mỗi nước cũng có sự khác nhau.
B. NỘI DUNG
1. Khái quát chung về giai cấp tư sản châu Á1.1. Khái niệm về giai cấp tư sản Theo từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông thì giai cấp tư sản được định nghĩa như sau: là một giai cấp cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa, chiếm hữu tư liệu sản xuất, làm chủ nhà máy và xí nghiệp… tiến hành bóc lột sức lao động thặng dư của công nhân. Giai cấp tư sản mâu thuẫn đối kháng với giai cấp công nhân.1.2. Sự hình thành và phát triển của giai cấp tư sản châu Á.1.2.1. Điều kiện ra đời và sự hình thành của giai cấp tư sản châu ÁTrước khi bị thực dân phương Tây các nước ở chấu Á là những quốc gia có độc lập chủ quyền, chế độ phong kiến ngự trị lâu đời bên cạnh đó ở một số quốc gia vẫn đang còn ở tình trạng thị tộc bộ lạc. Khi thực dân phương Tây xâm nhập rồi xâm lược thì các quốc gia ở châu Á lần lượt đánh mất chủ quyền của dân tộc (bên cạnh đó vẫn có một số nước giữ được độc lập chủ quyền).Tuy nhiên khi bị xâm lược nhà nước phong kiến và giai cấp phong kiến cũng như đông đảo quần chúng nhân dân các nước châu Á đã đứng lên chống lại sự xâm lược của của thực dân phương Tây để bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc.Khi đã bị đặt ách thống trị, phong trào đâu tranh của giai cấp cũ cũng như giai cấp mới xuất hiện trong xã hội bùng nổ mạnh mẽ. Và đây cũng là buổi chuyển giao giữa cái “cũ” và cái “mới” giữa cái tiến bộ của phương Tây và cái lạc hậu của phương Đông. Xã hội có những chuyển biến quan trọng về nhiều mặt: sự xuất hiện của giai cấp mới, tầng lớp mới, sự phân hóa của giai cấp cũ, sự chuyển biến về kinh tế văn hóa làm cho phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân châu Á càng phong phú hơn. Trong bối cảnh xã hội có nhiều sự thay đổi từ bên trong và những yếu tố mới từ bên ngoài đưa vào thì tất yếu sẽ có sự thay đổi mới.Một trong những yếu tố mới từ bên ngoài là sự xâm nhập của kinh tế tư bản bên ngoài và sự phát triển của kinh tế dân tộc đã thúc đẩy nhanh chóng nền kinh tế tiểu nông ở các nước châu Á. Đồng thời sự hình thành và phát triển của nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa là tiền đề vật chất cho những tư tưởng mới mang tính chất tiến bộ ra đời, đó là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản dân tộc. Dù những yếu tố kinh tế TBCN ở các quốc gia xuất hiện sớm hay muộn thì đến cuối thế kỉ XIX đầu XX giai cấp tư sản đã xuất hiện ở hầu hết các nước. Sự ra đời của giai cấp tư sản đồng hành cùng với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.Trước khi giai cấp tư sản châu Á ra đời hầu hết các quốc gia ở châu Á đã trở thành thuộc địa của thực dân phương Tây. Tuy nhiên trong quá trình xâm lược của thực dân phương Tây thì sự du nhập của nền kinh tế của các nước thực dân đã làm xuất hiện mầm mống kinh tế TBCN ở một số nước như: Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêxia,… chính những mầm mống kinh tế TBCN cùng với việc thống trị của CNTD đã làm xuất hiện giai cấp tư sản. Trong điều kiện xã hội thuộc địa, chịu sự cai trị của thực dân thì những yếu tố tư bản bên ngoài cũng theo chân quá trình khai thác thuộc địa du nhập vào mặt khác cùng với nền kinh tế phong kiến dần dần bị phá vỡ dẫn đến việc hình thành nền kinh tế mới trong chế độ cai trị của thực dân xâm lược.Cùng với sự phát triển này, những tầng lớp tư sản đầu tiên đã xuất hiện. Sớm nhất là một số tư sản mại bản đứng ra bao thầu các bộ phận kinh doanh của các nước thực dân phương Tây như thầu làm cầu, đường trại lính, đồn bốt, phà, xe lửa, cung cấp và tiếp tế lương thực, hay làm đại lý phân phối hàng hóa. Vì vậy, giai cấp này có quyền lợi gắn liền với chủ nghĩa thực dân nên khi chủ nghĩa thực dân xâm lược chúng từng bước cấu kết với bọn thực dân và nhanh chóng trở thành tay sai, công cụ đắc lực của chủ nghĩa thực dân để quay lại đàn áp, khủng bố và bóc lột chính nhân dân của mình nên chúng không thể là lực lượng đứng ra để chống chủ nghĩa thực dân.Tầng lớp tư sản dân tộc xuất thân từ nhiều bộ phận khác nhau trong xã hội: từ địa chủ quan lại, từ các doanh nghiệp, tiểu chủ mới giàu lên, tầng lớp trí thức. Trong số những nhà tư sản dân tộc đó có một bộ phận kinh doanh riêng biệt, nhằm phát triển theo hướng độc lập. Ban đầu họ cũng kinh doanh buôn bán với phương Tây nhưng khi có một số vốn tương đối thì họ tách ra kinh doanh riêng.Một số khác có xuất thân từ địa chủ giàu có chuyển một phần vốn kinh doanh công thương nghiệp với ý thức phát triển kinh tế dân tộc. Cũng có những người có ý thức hùn vốn lại thành lập những công ty lớn để cạnh tranh với chính quốc và nước ngoài. Nhưng hầu hết, giai cấp tư sản dân tộc bị thực dân chèn ép nặng nề nên phát triển chậm chạp về mọi mặt. Ra đời và phát triển trong điều kiện một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến hoặc phụ thuộc nên còn non yếu và ít ỏi. Nhưng sự phát triển của kinh tế tư bản dân tộc là cơ sở thuận lợi cho sự tiếp thu các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài. Tầng lớp tiểu tư sản ra đời trước và đông hơn giai cấp tư sản. Đó là những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, những người làm việc trong các sở công hay tư, những người làm nghề tự do.Khi chủ nghĩa tư bản du nhập quan hệ sản xuất TBCN vào các nước thuộc địa và phụ thuộc thì hầu hết những nghành thủ công nghiệp đều bị phá sản. Tuy nhiên, vẫn có những nghành phát triển do nhân dân lao động có khả năng mua hàng ngoại. Nên ở một khía cạnh nào đó những nghành thủ công nghiệp vẫn có cơ hội để phát triển. Do đó, tầng lớp tiểu thương khá đông đảo ở các nước đã đứng lên làm trung gian giữa người sản xuất và người tiêu thụ ngày càng đông lên.1.2.2.Qúa trình phát triển của giai cấp tư sản châu Á.Đến đầu thế kỷ XX, giai cấp tư sản ở châu Á ra đời. Tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng nước mà giai cấp tư sản có sự phát triển khác nhau mạnh hay yếu, nhiều hay ít...ra đời cùng với giai cấp tư sản là giai cấp công nhân. Nhưng ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, giai cấp công nhân ở các nước chưa trưởng thành và chưa trở thành một lực lượng chính trị độc lập như giai cấp tư sản mà thường đi kèm với giai cấp tư sản trong phong trào đấu tranh chống thực đân và phong kiến. Đầu thế kỷ XX, giai cấp tư sản dân tộc ở một số nước như Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia đã phát triển mạnh mẽ và trở thành giai cấp đại diện cho dân tộc mình trong cao trào đấu tranh chống thực dân và phong kiến, nhất là chống thực đân.Ở Trung Quốc, từ những năm 70 của thế kỷ XIX, ngành công nghiệp của Trung Quốc mới bắt đầu có sự phát triển. Hết Anh rồi tới Mỹ thi nhau lập xưởng sửa chữa tàu ở Thượng Hải, Hương Cảng. Các ngành công nghiệp nhẹ như chế biến chè, tơ, da, dầu, bông cán...cũng được chú trọng phát triển, nhất là chế biến chè. Các ngành công nghiệp dịch vụ như điện nước, hơi, than, diêm, giấy, thuỷ tinh, xà phòng...đã xuất hiện ở Thượng Hải. Đến đầu thế kỷ XX nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ, từ những năm 1900 đến năm 1908 số công trường thủ công đã tăng lên gấp đôi, hàng hoá tràn ngập cả nước. Đầu thế kỷ XX giai cấp tư sản ở Trung Quốc bắt đầu phát triển bằng việc mở rộng đầu tư sang các lĩnh vực khác ngoài diệt như công nghiệp dân dụng, công nghiệp nặng.Nhật Bản, vào thế kỷ XVII, đặc biệt vào đầu thế kỷ XIX công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ và tác động trở lại với xã hội. Tổ chức sản xuất thủ công nghiệp truyền thống là phường hội ở thành thị, những công trường thủ công phân tán khá phổ biến. Đầu thế kỷ XVIII do nhu cầu tiêu dùng vải lụa đã làm cho số lượng các công trường thủ công diệt ngày càng tăng. Đến giữa thế kỷ XIX số công trường thủ công đã lên tới hơn 100 công trường. Việc sản xuất kinh doanh đã gây những tác động tích cực. Nó đặt ra những cơ sở mong manh cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đẩy mạnh mở rộng ảnh hưởng đến nền kinh tế sản xuất hàng hoá.Ở Thổ Nhĩ Kỳ, giai cấp tư sản ra đời trong quá trình đế quốc tan rã và dần dần trở thành một nước nửa thuộc địa. Việc xâm nhập hàng hoá nước ngoài đã làm cho các ngành công nghiệp và thủ công nghiệp địa phương bị phá sản. Để phục vụ cho sự bóc lột của mình, tư bản nước ngoài đã xây dựng ở Thổ Nhĩ Kỳ nhiều đường sắt, song song với nó là việc khai thác hầm mỏ trồng bông. Điều này đã làm cho sự phân hoá giai cấp trong xã hội Thổ diễn ra nhanh chóng.Ở Iran, giai cấp tư sản ra đời trong điều kiện nước này bị thực đân Anh, Nga tranh chấp, triều đình phong kiến phải kí hiệp ước bất bình đẳng mang tính chất đầu hàng. Trước tình hình đó ý thức đân tộc được thức tỉnh ở những tri thức trong ngoài nước. Họ mở những trường dạy học, cho suất bản một số sách báo tiến bọ để tuyên truyền tinh thần dân tộc, chuẩn bị lực lượng cách mạng. Họ công kích phong kiến đương thời vào chống lại tư bản nước ngoài.Ở Ấn Độ, tuy thực đân Anh cản trở và phá hoại nền kinh tế nhưng giai cấp tư sản Ấn Độ đã không ngừng phát triển về số lượng và vốn sản xuất. Nhưng trong quá trình phát triển giai cấp tư sản Ấn Độ còn lệ thuộc nhiều vào tư sản Anh và còn nhiều liên hệ với tầng lớp địa chủ.Ở Việt Nam, đầu thế kỷ XX, giai cấp tư sản bỏ vốn kinh doanh và thành lập được nhiều công ty trong những ngành diệt, ngành gốm, nước mắn...Nhìn chung, đầu thế kỷ XX giai cấp tư sản châu Á đã có những bước phát triển về kinh tế, chính trị, Đây là những cần thiết cho việc thực hiện vai trò to lớn của mình trong cuộc đấu tranh chống thực dân và phong kiến. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản các phong trào diễn ra mạnh mẽ, rộng lớn, nó đã lôi kéo các giai cấp tầng lớp trong xã hội tham gia vào phong trào đấu tranh tuy phong trào đấu tranh diễn ra ở các nước khác nhau nhưng lại gần như cùng một thời gian, nó tạo nên một làn sóng cách mạng mạnh mẽ mà Lê Nin gọi là thời kỳ “châu Á thức tỉnh”, chủ nghĩa tư bản thế giới và phong trào cách mạng 1905 trong trạng thái trì trệ thời trung cổ đã thức tỉnh và bước vào một cuộc sống mới, vào cuộc đấu tranh giành quyền sơ đẳng nhất của con người. “sự thức tỉnh của châu Á... có nghĩa là một giai đoạn mới trong lịch sử thế giới được mở ra vào đầu thế kỷ XX”.1.3. Đặc điểm cuả giai cấp tư sản châu Á.Trong quá trình hình thành và phát triển giai cấp tư sản châu Á đã bộc lộ những điểm riêng biệt của mình.vĐặc điểm thứ nhất là: Giai cấp tư sản châu Á ra đời muộn nửa sau thế kỷ XIX, do sự xâm lược và ảnh hưởng ngày càng lớn của tư bản nước ngoài, nền kinh tế tư bản châu Á đã được kích thích phát triển nhanh chóng. Tư sản nhiều nước ra đời, vào những năm 70 của thế kỷ XIX, giai cấp tư sản Trung Quốc, Ấn Độ ra đời, giai cấp tư sản Nhật Bản thì ra đời trước đó, còn Việt Nam thì mãi đầu thế kỷ XX giai cấp tư sản mới ra đời. vĐặc điểm thứ hai của giai cấp châu Á là ra đời trong công nghiệp nhẹ. Hầu như giai cấp tư sản châu Á đều sản xuất kinh doanh trong những ngành thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến là chủ yếu. Ngoài ra còn kinh doanh trong nghành chế tạo và sửa chữa, khai mỏ, vận chuyển...nhưng chỉ chiếm một số lượng nhỏ bé. vĐặc điểm thứ ba của giai cấp tư sản châu Á là ra đời trong hoàn cảnh một nước thuộc địa hoặc phụ thuộc. Vì đến cuối thế kỷ XIX hầu hết các nước châu Á đều trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc, nên để tồn tại và phát triển tư sản các nước thường phải dựa vào tư sản nước ngoài về chính trị, kinh tế và kỹ thuật. Nhưng do bị tư bản nước ngoài chèn ép nên quyền lợi của tư bản thực dân mâu thuẫn với tư bản nước ngoài. Đồng thời lại bị chế độ phong kiến kìm hãm sự phát triển nên nó mang tính hai mặt. vĐặc điểm thứ tư từ đặc điểm thứ ba dẫn đến đặc điểm thứ tư của giai cấp tư sản châu Á là họ mang tính chất hai mặt. Một mặt họ đứng về phía nhân dân trong cuộc đấu tranh chống lại thực dân và phong kiến nhưng mặt khác họ cũng sẵn sàng thoả hiệp khi mà các nước tư bản nhượng bộ cho họ một số quyền lợi, nhất là về kinh tế.vĐặc điểm thứ năm: Giai cấp tư sản là đại diện cho giai cấp mới trong xã hội, cho phương thức sản xuất tiến bộ với hệ tưởng dân chủ tư sản tiên tiến. Nhưng do mới ra đời lại bị tư sản nước ngoài chèn ép nên tư sản dân tộc phát triển yếu ớt và châm chạp. .vSo sánh giai cấp tư sản châu Âu và châu Á So với giai cấp tư sản châu Âu thì giai cấp tư sản châu Á ra đời muộn hơn nhiều vì giai cấp tư sản chấu Âu ra đời từ thế kỉ XVI, XVII, trong điều kiện nền kinh tế tư bản phát triển nhưng bị các thế lực phong kiến trong nước kìm hãm sự phát triển nên giai cấp tư sản đứng ra tổ chức lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc cách mạng tư sản để xác lập phương thức sản xuất TBCN.Ra đời trong điều kiện nền kinh tế phát triển nên giai cấp tư sản châu Âu trưởng thành hơn về số lượng và chất lượng cho nên ngay từ buổi đầu giai cấp tư sản đã đứng ra tập hợp nhân dân và liên minh với các giai câp khác tiến hành CMTS.Tuy nhiên trong buổi đầu thời cận đại thì giai cấp tư sản châu Âu mang tính chất tiến bộ và cách mạng vì giai đoạn này ở châu Âu chế độ phong kiến vẫn còn tồn tai vững chắc nên giai cấp tư sản chưa co một tư tưởng chính trị vững vàng. Ở giai đoạn sau khi giai cấp tư sản đã bộc lộ những nhược điểm là quay lại phản bội nhân dân vì lúc này giai cấp tư sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập trong xã hội.1.4.Thái độ của giai cấp tư sảnTrong phong trào đấu tranh của nhà nước phong kiến và giai cấp phong kiến:Khi thực dân phương Tây xâm nhập thông qua các hoạt động giao lưu buôn bán thương mại, truyền giáo vào chấu Á thì những mầm mống của nền kinh tế TBCN đã xuất hiện, lúc này một số người đã chuyển hướng kinh doanh, những tầng lớp tư sản xuất hiện nhưng chưa trở thành một giai cấp trong xã hội. Họ mới là tầng lớp tư sản, buôn bán, chủ các công trường thủ công phân tán.Khi thực dân phương Tây xâm lược nhà nước phong kiến và giai cấp phong kiến tổ chức đấu tranh chống thực dân thì tầng lớp này cũng đã hưởng ứng tham gia đấu tranh. Họ đi theo dưới ngọn cờ của giai cấp phong kiến bởi vì nhiệm vụ dân tộc là trên hết. Họ đồng tình ủng hộ và đi theo phong trào đấu tranh của giai cấp phong kiến trở thành lực lượng tham gia đấu tranh chống xâm lược.Khi giai cấp phong kiến mất vai trò lãnh đạo thì giai cấp tư sản lúc này đã trở thành một giai cấp trong xã hội do sự đầu tư khai thác thuộc địa của thực dân phương Tây. Nhưng lúc này giai cấp tư sản đang trong quá trình hình thành, số lượng và chất lượng yếu kém, lại chưa đủ khả năng lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, lúc này có vai trò lãnh đạo của trí thức phong kiến tiến bộ tiếp thu tư tưởng mới tư tưởng dân chủ tư sản. Trong khi tầng lớp trí thứcphong kiến này đấu tranh thì giai cấp tư sản có thái đô là đồng tình ủng hộ về vật chất cho phong trào.Và khi phong trào theo khuynh hướng tư sản của trí thức phong kiến thất bại thì giai cấp tư sản lúc nay đã đứng ra đảm nhiệm vai trò sứ mệnh lịch sử của mình. Họ nhận thấy được yêu cầu đòi hỏi của xã hội của dân tộc họ lúc bấy giờ. Lúc này họ đại diện cho lực lượng tiến bộ trong xã hội, là lực lượng tiên tiến nhất có thể đứng ra tập hợp lực lượng bởi vì họ đại diện cho tư tưởng tiến bộ. Họ đã nhậ thấy được hoàn cảnh đất nước phụ thuộc và mâu thuẫn chủ yếu là gì, nhận thức được nhiệm vụ của mình vì vậy họ đã giương cao ngọn cờ đoàn kết thống nhất, tập hợp lực lượng đấu tranh.Vì vậy đầu thế kỉ XX giai cấp tư sản đã đứng ra lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Họ đã đông đảo về số lượng, trưởng thành về chất lượng, ý thức giai cấp, họ đã có đủ khả năng thành lập những tổ chức chính trị, các chính đảng để tập hợp quần chúng nhân dân.Ở một số nước ở châu Á vai trò và sứ mệnh giải phóng dân tộc là do giai cấp tư sản lãnh đạo và thực tế kết quả giai cấp tư sản đã thực hiện được trách nhiệm của mình là giải phóng dân tộc. Như ở Inđônêxia, Philippin,…tuy nhiên ở một số nước vai trò cảu giai cấp tư sản cũng chỉ trong một thời gian ngắn như ở Trung Quốc sau sự thất bại của cách mạng Tân Hợi thì cũng chấm dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp tư sản, hay ở Việt Nam sau năm 1930 với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái thì cũng chấm dứt vai trò của giai cấp tư sản. Từ đó ngọn cờ cách mạng chuyển hẳn sang giai cấp vô sản.Khi giai cấp tư sản mất hết vai trò lãnh đạo thì họ có thái độ với giai cấp mới nắm chính quyền lãnh đạo là họ không bài trừ loại bỏ mà vẫn tham gia đấu tranh dưới ngọn cờ của giai cấp vô sản.2. Phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản ở châu Á2.1. Mục đích đấu tranhMục đích đấu đấu tranh của giai cấp tư sản châu Á cũng tiến bộ hơn so với phong kiên và nông dân Phong kiến đấu tranh là để bảo vệ, khôi phục lại nền quân chủ chuyên chế (ngai vàng vương tộc..)Nông dân đấu tranh để đòi các quyền lợi về ruộng đất cơm áo gạo tiền.. nếu thắng lợi thì lại đi vào con đường phong kiến hóa. Đánh đổ cái cũ không tiến bộ để thiết lập lại cái cũ tiến bộ hơn mà không xây dựng chế độ mới. Bởi vì nông dân không đại diện cho phương thức sản xuất và tư tưởng tiến bộ nào.Còn giai cấp tư sản đấu tranh giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ cũ (chống phong kiến) để thiết lập chế độ mới TBCN đưa đất nước phát triển đi lênDo hạn chế về tư tưởng vì vậy phong trào đấu tranh của giai cấp phong kiến, nông dân chủ yếu là dùng ngọn cờ tôn giáo để tập hợp lực lượng còn tư sản thì dùng đấu tranh tự do để tập hợp lực lượng. Từ mục đích đấu tranh đó thì giai cấp tư sản họ có phương pháp đấu tran đường lối cương lĩnh rõ ràng. Họ được trang bị bởi lý luận tiến bộ là tư tưởng dân chủ tư sản của phương Tây. Họ đã thành lập cá tổ chức chính trị, chính đảng của giai cấp mình và trở thành lực lượng chính trị độc lập (như tổ chức Đồng Minh Hội của Trung Quốc với cương lĩnh: “đánh đổ triều đình mãn Thanh, thành lập dân quốc, bình quân địa quyền” trong đó thành lập dân quốc và bình quân địa quyền là hai nhiệm vụ có ý nghĩa cách mạng và tiến bộ so với phong trào theo xu hướng tư sản thì nó cũng có nhiều tiến bộ.Giai cấp tư sản đã tiếp thu hệ tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây một cách có hệ thống, trực tiếp hơn trí thức phong kiến. Giai cấp tư sản có chủ trương đường lối cụ thể hơn, đổi mới về chính trị, xây dựng chế độ tư sản chống xâm lược của tư bản một cách cụ thể.2.2. Biện pháp đấu tranhBiện pháp đấu tranh thì giai cấp tư sản sử dụng nhiều biện pháp phong phú, không chỉ cải cách, hòa bình mà còn kết hợp với đấu tranh kinh tế, đấu tranh vũ trang, chính trị.Tùy theo điều kiện của mỗi quốc gia, có đặc điểm lịch sử khác nhau về kinh tế xã hội, văn hóa xã hội khác nhau mà con đường đấu tranh, biện pháp đáu tranh cũng khác nhau của giai cấp tư sản ở mỗi nước có sự khác nhau và quy cho cùng ta thấy có hai con đường đấu tranh chủ yếu đó là:- Thứ nhất là con đường đấu tranh bằng vũ trang bạo lực cánh mạng- Thứ hai là con đường đấu tranh bằng phương pháp ôn hòa, hòa bình+ Con đường đấu tranh bằng phương pháp hòa bình có thể nói như Ấn Độ, Inđônêxia là những nước điển hình cho con đường đấu tranh không bạo lực, mà chủ yếu bằng con đường hòa bình, ôn hòa do giai cấp tư sản lãnh đạo để giành độc lập dân tộc và con đường cứu nước của giai cấp tư sản Ấn Độ và Inđônêxia được nhân dân chấp nhận. Vì nó phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của mỗi quốc gia, của mỗi dân tộc.Trong hoàn cảnh đều là những nước bị phân thành nhiều tiểu quốc, dân cư đông, thành phần dân tộc phức tạp, là những quốc gia có nhiều tôn giáo khác nhau… trong khi đó cùng với sự thất bại cuả các cuộc khởi nghĩa giải phóng dân tộc ở các nước này lại không