Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm
lớn của toàn nhân loại, của hầu hết các quốc gia. Thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ
cho mọi người, nam cũng như nữ, để tạo thu nhập và không ngừng nâng cao chất lượng
cuộc sống là ưu tiên số một trong chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Bởi vì, trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng ta luôn lấy con người làm trung tâm,
coi phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tạo điều kiện
cho mọi người có cơ hội làm việc; một mặt, là điều kiện để phát huy được tiềm năng lao
động, nguồn nội lực to lớn nhất ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời
sống. Mặt khác, cũng là hướng cơ bản để xóa đói giảm nghèo bền vững. Đặc biệt trong
điều kiện nước ta tài nguyên, đất đai không nhiều, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất
còn nghèo, đang trong quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế trong
xu thế toàn cầu hóa. Việc ưu tiên hàng đầu cho đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực con người là đầu tư có hiệu quả nhất để tăng trưởng và phát triển kinh tế, là
con đường ngắn nhất để đi tắt, đón đầu, chống nguy cơ tụt hậu và chủ động tham gia vào
quá trình phân công lao động quốc tế.
Bắc Ninh là một tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997 với diện tích tự nhiên 803,87
km
2
, dân số 951.600 người, mật độ dân số 1.184 người/km
2
. Thu nhập bình quân đầu
người còn thấp, kết cấu hạ tầng thấp kém, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các
vùng. Chất lượng lao động thấp, hầu hết lao động phổ thông phần lớn chưa qua đào tạo,
vấn đề bảo đảm việc làm đã và đang là một thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh. Mặt khác, tỷ lệ tăng dân số của tỉnh còn khá cao, trong khi
đất nông nghiệp có hạn, diện tích canh tác bình quân đầu người ngày càng giảm... Đất
chật, người đông, ngành nghề và dịch vụ kém phát triển đã và đang là nguồn gốc làm nảy
sinh những mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu về lao động ở tỉnh, tạo nên sự bức xúc
ngày càng lớn về việc làm ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
105 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 3287 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh -
Thực trạng và giải pháp
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm
lớn của toàn nhân loại, của hầu hết các quốc gia. Thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ
cho mọi người, nam cũng như nữ, để tạo thu nhập và không ngừng nâng cao chất lượng
cuộc sống là ưu tiên số một trong chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Bởi vì, trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng ta luôn lấy con người làm trung tâm,
coi phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tạo điều kiện
cho mọi người có cơ hội làm việc; một mặt, là điều kiện để phát huy được tiềm năng lao
động, nguồn nội lực to lớn nhất ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời
sống. Mặt khác, cũng là hướng cơ bản để xóa đói giảm nghèo bền vững. Đặc biệt trong
điều kiện nước ta tài nguyên, đất đai không nhiều, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất
còn nghèo, đang trong quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế trong
xu thế toàn cầu hóa. Việc ưu tiên hàng đầu cho đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực con người là đầu tư có hiệu quả nhất để tăng trưởng và phát triển kinh tế, là
con đường ngắn nhất để đi tắt, đón đầu, chống nguy cơ tụt hậu và chủ động tham gia vào
quá trình phân công lao động quốc tế.
Bắc Ninh là một tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997 với diện tích tự nhiên 803,87
km2, dân số 951.600 người, mật độ dân số 1.184 người/km2. Thu nhập bình quân đầu
người còn thấp, kết cấu hạ tầng thấp kém, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các
vùng. Chất lượng lao động thấp, hầu hết lao động phổ thông phần lớn chưa qua đào tạo,
vấn đề bảo đảm việc làm đã và đang là một thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh. Mặt khác, tỷ lệ tăng dân số của tỉnh còn khá cao, trong khi
đất nông nghiệp có hạn, diện tích canh tác bình quân đầu người ngày càng giảm... Đất
chật, người đông, ngành nghề và dịch vụ kém phát triển đã và đang là nguồn gốc làm nảy
sinh những mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu về lao động ở tỉnh, tạo nên sự bức xúc
ngày càng lớn về việc làm ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay nhằm
đánh giá đúng thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu để sử dụng
hợp lý nguồn lao động đó đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý
luận và thực tiễn. Do đó, tôi chọn đề tài: "Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng
và giải pháp" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở nước ta từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, có nhiều tác giả đã có công
trình, bài viết xung quanh vấn đề này, tiêu biểu như: Vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập ở
nông thôn của TS Nguyễn Sinh Cúc, Tạp chí Thông tin lý luận 11/1990; Sử dụng nguồn
lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam của tác giả Trần Đình Hoan - Lê Mạnh Khoa,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991; Về giải quyết việc làm ở nông thôn từ năm 1994, 1995 đến
năm 2000 của tác giả Nguyễn Khang, Tạp chí Lao động và xã hội 9/1993; Về chính sách
giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS Nguyễn Hữu Dũng và TS Trần Hữu Trung (chủ
biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997... Ngoài ra, cũng có một số luận văn thạc sĩ
viết về đề tài việc làm ở một số tỉnh như Đồng Nai, Kiên Giang…Trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh, cho đến nay chưa có công trình khảo sát, nghiên cứu nào về chuyên đề này dưới
dạng một luận văn khoa học, để đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng hợp lý
nguồn lao động dôi thừa ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
- Mục đích của đề tài:
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh
Bắc Ninh, phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc
làm cho người lao động ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
- Nhiệm vụ của đề tài:
+ Khái quát những vấn đề cơ bản về lý luận lao động, việc làm và thất nghiệp.
Làm rõ những nhân tố tác động đến việc giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay, để làm cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở tỉnh
Bắc Ninh.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ 1997 -
2000.
+ Đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc
làm ở tỉnh Bắc Ninh.
- Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
Đề tài chỉ tập trung vào vấn đề có tính chất trọng điểm: giải quyết việc làm ở tỉnh
Bắc Ninh từ 1997 - 2000 thông qua một số giải pháp chủ yếu trong thời gian từ nay đến
năm 2010.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương các khóa xung quanh
vấn đề này. Đồng thời, đề tài cũng kế thừa và sử dụng có chọn lọc một số đề xuất và các
số liệu thống kê trong một số công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả trong và
ngoài nước.
- Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử để nghiên cứu. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp: hệ thống, tổng hợp, thống kê, so
sánh đối chiếu và phân tích để làm sáng tỏ vấn đề.
5. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997
đến nay.
- Đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm giải quyết từng bước
việc làm ở tỉnh Bắc Ninh.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
việc làm và các nhân tố tác động
đến giải quyết việc làm cho người lao động
trong nền kinh tế thị trường
1.1. Một số khái quát về lao động, việc làm và thất nghiệp
1.1.1 Khái quát về lao động và việc làm
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động vào thế giới
tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ các nhu cầu của
đời sống. Do đó, lao động là hoạt động đặc thù của con người, phân biệt con người và xã
hội loài người với các loài động vật và xã hội loài vật khác. Trong quá trình lao động, con
người không những tạo ra của cải, mà còn cải tạo bản thân mình làm cho con người phát
triển cả về thể lực và trí lực. Đặc trưng chủ yếu của lao động là sáng tạo ra giá trị và của
cải cho phép đáp ứng nhu cầu của con người, và những nhu cầu này phát triển, vô hạn
nên bản thân lao động cũng phát triển và vô hạn, ít nhất cũng là sự phát triển của chính
bản thân con người. Song, những nhu cầu không chỉ thuộc lĩnh vực kinh tế, vật chất, mà
còn bao gồm tất cả những lĩnh vực kết tinh thành văn hóa, xã hội, đời sống cộng đồng.
Trong thực tiễn, không phải là thiếu lao động, mà là thiếu việc làm. Việc làm chỉ là cái vỏ
xã hội, là cái khung pháp lý trong đó lao động được diễn ra. Trong xã hội có giai cấp thì
việc làm chịu chi phối bởi lợi ích của giai cấp thống trị và hệ thống luật pháp dựa trên cơ
sở lợi ích của giai cấp đó hoạch định. Do đó, lao động thuộc về nhu cầu vô hạn của con
người như là một cơ sở đảm bảo sự tồn tại và phát triển xã hội, còn việc làm thì lại là
phạm trù giới hạn và bị lợi ích giai cấp chi phối. Trong thực tiễn, vì lợi ích kinh tế những
giai cấp nắm trong tay các điều kiện vật chất của lao động có thể thu hút nhanh chóng
những khối lượng lớn sức lao động vào các quá trình sản xuất và cũng vì lợi ích kinh tế họ
sẵn sàng sa thải hàng loạt người lao động, nên việc làm của xã hội bị thu hẹp lại. Mặt khác,
quá trình lao động không chỉ diễn ra đơn độc giữa một cá thể và tự nhiên, mà trong quá
trình đó, con người tác động vào nhau nhờ đó mà hình thành nên tập quán, truyền thống và
trở thành những đặc trưng văn hóa của một dân tộc, quốc gia. Như vậy sự thay đổi cơ bản
về mặt văn hóa cũng phải được xảy ra trong quan hệ của chúng ta với lao động và sự giàu
có. Phải coi lao động là sáng tạo ra của cải, tất cả những gì góp phần tạo ra giá trị theo
nghĩa kinh tế, tạo ra sự sung túc về phương diện cá nhân, tạo ra mối quan hệ xã hội về
phương diện tập thể [24, tr. 25].
Theo Mác: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên,
một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết
và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [20, tr. 266]. Trong quá trình đó con người
đã vận dụng sức lực của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào tự nhiên một
cách có ý thức, có mục đích nhằm biến đổi những vật thể của tự nhiên cho phù hợp với
nhu cầu của mình. Trong quá trình lao động sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của ba
yếu tố: lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong bất kỳ nền sản xuất nào
kể cả nền sản xuất hiện đại, lao động bao giờ cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện không
thể thiếu của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người.
Tuy nhiên, trong quá trình đó, người lao động giữ vị trí quan trọng hàng đầu, vì nó
không chỉ là chủ thể sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu tồn tại của con
người với tư cách một xã hội, mà còn sáng tạo ra những yếu tố khác cấu thành lực lượng
sản xuất xã hội. Trong một quốc gia, một vùng hay một địa phương cụ thể thì người
lao động được thể hiện ở nguồn lao động. Đó là tổng thể toàn bộ thể lực và trí lực của
bộ phận dân cư có khả năng lao động. Nói một cách cụ thể, nguồn lao động là bộ phận
dân cư của đất nước, có toàn bộ những khả năng về thể chất và tinh thần có thể sử
dụng trong quá trình lao động. Nguồn lao động là một yếu tố quan trọng hợp thành
tiềm lực của đất nước. Nói đến nguồn lao động là nói đến số lượng tối đa của dân cư có
khả năng lao động. Những tiêu chuẩn cơ bản để xếp dân cư vào nguồn lao động là độ tuổi
và tình trạng sức khỏe. ở nước ta, nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi lao
động (nam từ 15-60 tuổi, nữ từ 15-55 tuổi), có khả năng lao động (trừ những người tàn
tật mất sức lao động loại nặng). Ngoài ra, nguồn lao động còn bao gồm số người ngoài độ
tuổi lao động (trên độ tuổi lao động và dưới độ tuổi lao động từ 13-15 tuổi) thực tế có
việc làm. Kết quả điều tra cho thấy, số người trên độ tuổi lao động thực tế có việc làm
chiếm 2/3 trong tổng số người trên độ tuổi lao động. Và số trẻ em từ
13-15 tuổi ở nông thôn phải làm những việc giúp đỡ gia đình như: chăn trâu cắt cỏ, tham
gia hoạt động sản xuất… chiếm tỷ lệ khá cao. Bộ phận chính của nguồn lao động là lực
lượng lao động, bao gồm những người đang làm việc và những người thất nghiệp. Đặc
trưng của nguồn lao động là các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng. Trong đó những chỉ
tiêu quan trọng là: số lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, số người đang đi học, số
người đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và sự phân bố theo lĩnh vực, theo ngành,
theo lãnh thổ… Mức tăng nguồn lao động là sự chênh lệch giữa số dân cư đến độ tuổi lao
động và số dân cư đến độ tuổi nghỉ hưu. Trong quá trình phát triển của sản xuất và đời
sống xã hội, chất lượng nguồn lao động cũng không ngừng được tăng lên. Các chỉ tiêu
thường được dùng để đánh giá chất lượng nguồn lao động: trình độ văn hóa, khả năng
tiếp thu của người lao động; trình độ chuyên môn kỹ thuật, mức độ lành nghề; kinh
nghiệm thực tiễn; trình độ quản lý và phong cách làm việc; sức khỏe.
Nếu lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, thì quá trình đó chỉ có thể diễn
ra khi đã được dựa trên giả định những tiền đề vật chất cho quá trình đó đã đầy đủ. Trên
bình diện một quốc gia cụ thể, thì quá trình lao động sản xuất (việc làm) của bộ phận dân
cư có sức lao động lại được giả định trên cơ sở số lượng việc làm. Do đó việc làm không
chỉ diễn ra trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, mà cả quan hệ giữa con người
với con người trong quá trình sản xuất, trong đó liên quan đến các lợi ích kinh tế và luật
pháp khi tạo lập đầy đủ các yếu tố vật chất để quá trình làm việc diễn ra. Do đó, việc làm là
một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu, nó thuộc loại
những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội.
Khái niệm việc làm có liên quan chặt chẽ với khái niệm lao động. Việc làm thể
hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội
cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu
cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế,
việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con
người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới, người lao động được coi là có việc làm và được
xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc dân, khu vực
Nhà nước, kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó, Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động
từ A đến Z. Do đó, trong xã hội không thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc
làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ…
Từ khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường, quan niệm về việc làm đã thay đổi
một cách căn bản. Theo Bộ luật Lao động ở điều 13 chương II khái niệm việc làm đã
được xác định là: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm
đều được thừa nhận là việc làm".
Như vậy, theo quan niệm trên, việc làm bao gồm hai yếu tố: lao động tạo ra thu
nhập và không bị pháp luật cấm. Trước hết nó xóa bỏ được quan niệm cũ cho rằng chỉ có
làm việc trong khu vực Nhà nước mới được coi là có việc làm, bởi vì, lao động tạo ra
nguồn thu nhập không chỉ trong khu vực Nhà nước mà cả trong khu vực tư nhân, cá thể,
hộ gia đình… ý nghĩa kinh tế, xã hội của quan niệm này là ở chỗ nó xóa bỏ sự phân biệt
đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo việc làm
cho người lao động. Mặt khác, khái niệm trên còn làm nổi rõ đặc trưng của Nhà nước
pháp quyền, thể hiện ở chỗ cho phép công dân Việt Nam được làm những việc mà pháp
luật không cấm. Ví dụ, nghề giúp việc gia đình là nghề mà trước đây chưa được xã hội
tôn trọng, thì nay đã trở thành việc làm đáng khuyến khích và được pháp luật bảo vệ.
Ngược lại, mọi công dân đều không được làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm
như: mại dâm, buôn bán ma túy, sản xuất và buôn bán thuốc nổ…
Với quan niệm việc làm như Bộ luật Lao động quy định sẽ làm cho nội dung của
việc làm được mở rộng, tạo tiền đề để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm
cho nhiều người thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đồng thời ngăn chặn những việc
làm phi pháp dễ nảy sinh trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa.
Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm, cần làm sáng rõ khái niệm việc làm đầy đủ và
việc làm hợp lý.
Việc làm đầy đủ được hiểu là sự thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm cho mọi
thành viên có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Cũng có thể nói việc làm
đầy đủ là ở trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì có thể tìm
được việc làm trong một thời gian tương đối ngắn. Tuy nhiên, để đạt tới mức độ đảm bảo
việc làm đầy đủ phải có một quá trình nhất định. Quá trình ấy ngắn hay dài là tùy thuộc
vào trình độ, hoàn cảnh khách quan, chủ quan của từng nước. Một nước có điểm xuất
phát càng thấp, trong quá trình phát triển vấn đề đảm bảo việc làm đầy đủ cho người lao
động càng khó khăn và cấp thiết. ở nước ta hiện nay, tình trạng phổ biến là thiếu việc làm
đầy đủ dưới cả hai dạng: thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình.
Thiếu việc làm vô hình là phân bố không cân đối giữa lao động và các yếu tố sản
xuất khác. Thiếu việc làm vô hình do sự bố trí và sử dụng lao động bất hợp lý nên thường
xảy ra một trong các trường hợp sau đây:
- Việc làm không tạo ra cơ hội để sử dụng đầy đủ chất lượng và khả năng người
lao động.
- Thu nhập mang lại từ việc làm thấp hơn so với mức thu nhập trung bình.
- Năng suất lao động ở nơi người lao động làm việc thấp hơn so với mức trung
bình.
Thiếu việc làm hữu hình là tình trạng không có đủ khối lượng công việc để làm hết
mức thời gian quy định trong một ngày lao động bình thường và người lao động đang đi
tìm việc khác hoặc sẽ nhận một việc làm bổ sung.
Trong quá trình thực hiện việc làm đầy đủ, quá trình toàn dụng lao động, cần từng
bước, từng bộ phận thực hiện việc làm hợp lý.
Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà còn nói rõ
việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Việc làm hợp
lý do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn so với việc làm đầy đủ.
Việc làm hợp lý phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con
người với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá nhân người lao
động với lợi ích của xã hội.
Tuy nhiên, khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa
tương đối. Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và việc làm hợp
lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp. Đối với những nước phát triển, sản xuất
phát triển nhưng nguồn lao động tăng chậm dẫn đến thiếu sức lao động. Ngược lại, đối với
những nước đang và kém phát triển, khả năng mở rộng sản xuất có hạn, nguồn lao động lại
rất dồi dào, dẫn đến một bộ phận muốn làm việc, nhưng không có việc để làm, nghĩa là thất
nghiệp.
1.1.2. Khái quát về thất nghiệp
Thất nghiệp (không có việc làm) là phạm trù kinh tế gắn với trạng thái tâm lý xã
hội căng thẳng của những người lao động, trong đó khả năng vận dụng thần kinh và bắp thịt
của họ bị kìm giữ bởi thiếu các điều kiện vật chất và pháp lý cho lao động bất chấp nguyện
vọng mong muốn làm việc của họ. Đây là phạm trù chủ yếu liên quan đến mối quan hệ giữa
con người với con người trong quá trình sản xuất, nó nảy sinh chủ yếu bởi mối quan hệ lợi
ích kinh tế, trong đó những người nắm giữ trong tay các điều kiện vật chất của lao động
vì lợi ích của mình hoặc vì bị giới hạn bởi khả năng tổ chức và pháp lý mà buộc phải loại
bỏ một bộ phận những người có khả năng lao động ra khỏi quá trình sản xuất xã hội, đặt
họ và gia đình phải đối mặt trước những giới hạn chật hẹp và nguy cơ bị mất những
nguồn nuôi dưỡng chủ yếu. Biểu hiện ra trên bề mặt xã hội, ở các văn bản pháp lý, thất
nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, hiện chưa có việc
làm và đang tích cực tìm việc làm.
Theo khái niệm này, ở nước ta những người trong độ tuổi lao động (nữ từ 15-55
tuổi, nam từ 15-60 tuổi) không có việc làm hoặc đang tìm việc làm là những người thất
nghiệp.
Tuy nhiên những người trong độ tuổi lao động nhưng thuộc các đối tượng sau đây
không thuộc những người thất nghiệp và không nằm trong lực lượng lao động:
- Người đang đi học.
- Người không có khả năng lao động.
- Người làm công việc nội trợ cho gia đình mình.
- Người không có nhu cầu tìm kiếm việc làm.
Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học hiện đại, thì trong nền kinh tế thị trường,
thất nghiệp là một hiện tượng khách quan gắn liền với một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên xác
định. Người ta chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp tới mức thất nghiệp tự nhiên, chứ
không loại bỏ được nó. Tỷ lệ thất nghiệp là một trong các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
tình trạng của một nền kinh tế, là mối quan tâm của mọi Chính phủ và của mọi thành viên
trong xã hội.
1.2. những nhân tố tác động đến vấn đề giải quyết việc làm trong nền kinh tế
thị trường
Nếu trừu tượng hóa các mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình
lao động sản xuất, mà chỉ xét việc làm như một tổng thể các điều kiện vật chất, các điều
kiện pháp lý trong đó quá trình lao động (làm việc) có thể được diễn ra, thì việc làm chịu
chi phối bởi các nhân tố sau:
1.2.1. Tài nguyên đất đai là đối tượng lao động cơ bản