Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển bền vững cũng đều phải tiến hành
quản lý đối với những phân hệ và lĩnh vực hoạt động của mình. Sản xuất là một những phân
hệ và lĩnh vực hoạt động cơ bản để nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của nhà doanh
nghiệp. Có vai trò trực tiếp và quyết định trong việc tạo ra và cung cấp sản phẩm. Dịch vụ
cho xã hội đem lại những khoản lợi nhuận nhất định cho doanh nghiệp. Cũng như các phân
hệ khác. Phân hệ sản xuất cũng cần được quản lý và như vậy công tác quản lý sản xuất
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm chính là chức năng cơ bản của doanh nghiệp.
Ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và nhịp độ ngày càng
khẩn trương của quá trình hội nhập kinh tế. Mỗi doanh nghiệp muốn khẳng định vị trí không
còn cách nào khác là phải đổi mới, hoàn thiện bản thân trong đó trọng tâm là hoàn thiện các
mặt hoạt động của công tác quản lý đặc biệt là công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao
chất lượng sản phẩm.
Qua thời gian thực tập ở công ty Dong Yun, em đã nhận thấy rằng các mặt hoạt động
của công tác quản lý ở công ty có nhiều thành tích và chuyển biến đáng kể nhưng cũng còng
không ít hạn chế, yếu kém cần xem xét, nhanh chóng khác phục để công ty luôn xứng đáng
với vị trí là một trong những doanh nghiệp đứng đầu ngành. Chính vì vậy, sau quá trình
nghiên cứu tìm hiểu tình hình hoạt động của công ty em đã mạnh dạn chọn đề tài "Hoàn
thiện công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty Dong
Yun cho luận văn của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn tốt nghiệp của em
được gồm 3 chương.
Chương I: Cơ sở lý luận và quản lý sản xuất và chất lượng của sản phẩm.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý và chất lượng sản phẩm của công ty
Dong Yun.
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý sản xuất nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm của công ty Dong Yun.
49 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2158 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty Dong Yun, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện công tác quản lý sản xuất nhằm
nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty
Dong Yun
Lời mở đầu
Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển bền vững cũng đều phải tiến hành
quản lý đối với những phân hệ và lĩnh vực hoạt động của mình. Sản xuất là một những phân
hệ và lĩnh vực hoạt động cơ bản để nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của nhà doanh
nghiệp. Có vai trò trực tiếp và quyết định trong việc tạo ra và cung cấp sản phẩm. Dịch vụ
cho xã hội đem lại những khoản lợi nhuận nhất định cho doanh nghiệp. Cũng như các phân
hệ khác. Phân hệ sản xuất cũng cần được quản lý và như vậy công tác quản lý sản xuất
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm chính là chức năng cơ bản của doanh nghiệp.
Ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và nhịp độ ngày càng
khẩn trương của quá trình hội nhập kinh tế. Mỗi doanh nghiệp muốn khẳng định vị trí không
còn cách nào khác là phải đổi mới, hoàn thiện bản thân trong đó trọng tâm là hoàn thiện các
mặt hoạt động của công tác quản lý đặc biệt là công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao
chất lượng sản phẩm.
Qua thời gian thực tập ở công ty Dong Yun, em đã nhận thấy rằng các mặt hoạt động
của công tác quản lý ở công ty có nhiều thành tích và chuyển biến đáng kể nhưng cũng còng
không ít hạn chế, yếu kém cần xem xét, nhanh chóng khác phục để công ty luôn xứng đáng
với vị trí là một trong những doanh nghiệp đứng đầu ngành. Chính vì vậy, sau quá trình
nghiên cứu tìm hiểu tình hình hoạt động của công ty em đã mạnh dạn chọn đề tài "Hoàn
thiện công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty Dong
Yun cho luận văn của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn tốt nghiệp của em
được gồm 3 chương.
Chương I: Cơ sở lý luận và quản lý sản xuất và chất lượng của sản phẩm.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý và chất lượng sản phẩm của công ty
Dong Yun.
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý sản xuất nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm của công ty Dong Yun.
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm
I. Quản lý sản xuất.
1.Các khái niệm.
1.1. Sản xuất và các yếu tố của nó.
a. Khái niệm sản xuất.
Mỗi một tổ chức, một doanh nghiệp đều là một hệ thống có cấu trúc bên trong
gồm nhiều phân hệ, nhiều bộ phận gắn kết chặt chẽ và có mối quan hệ tương tác với
nhau để thực hiện những mục tiêu chung của hệ thống. Mỗi một doanh nghiệp đều
có những sản phẩm của mình, đó là các đầu ra mong muốn cung cấp cho xã hội.
Quá trình hoạt động trực tiếp tạo ra các sản phẩm của doanh nghiệp chính là quá
trình sản xuất. Phân hệ trực tiếp để tạo ra các sản phẩm ấy là sản phẩm sản xuất.
Đây là phan hệ chính của cấu trúc doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định đến việc tạo
ra sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp để cung cấp cho xã hội. Như vậy, theo
nghĩa rộng, quá trình sản xuất và phân hệ sản xuất không phải chỉ tồn tại ở doanh
nghiệp, mà còn tồn tại ở nhiều loại hình tổ chức khác. Và muốn tạo ra sản phẩm,
dịch vụ đầu ra phục vụ cho xã hội thì quá trình sản xuất phải sử dụng các yếu tố con
người, nguyên vật liệu, tài chính… Gọi là các yếu tố đầu vào và chế biến nó theo
một quy trình nhất định.
Vậy, qua phân tích ở trên, có thể coi sản xuất là quá trình sử dụng, chế biến
các yếu tố đầu vào (con người, vật chất, tài chính, thông tin…) để tạo thành các đầu
ra mong muốn (sản phẩm dịch vụ) cung cấp cho xã hội.
b. Các yếu tố của sản xuất.
Cũng giống như các phân hệ khác, hệ thống sản xuất bao gồm nhiều yếu tố
cấu thành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Toàn bộ phân hệ sản xuất được thể
hiện bằng sơ đồ sau:
Hình
+ Các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất rất đa dạng, gồm có:
- Con người.
- Đất đai, tài nguyên thiên nhiên
- Nguyên nhiên vật liệu
- Máy móc thiết bị, công nghệ
- Vốn
- Kỹ năng quản lý
- Nguồn thông tin
Chúng là những điều kiện, phương tiện cần thiết cho bất ký quá trình sản xuất
sản phẩm hoặc dịch vụ nào. Muốn quá trình sản xuất có hiệu quả, cần phải tổ chức
khai thác, sử dụng, quản lý các yếu tố đầu vào một cách hợp lý, tiết kiệm nhất.
+ Các đầu ra chủ yếu của sản xuất gồm 2 loại là sản phẩm và dịch vụ. Đối với
hoạt động cung cấp dịch vụ, các đầu ra được thể hiện dưới nhiều dạng khó nhận biết
một cách cụ thể không như trong sản xuất sản phẩm. Ngoài ra còn có những phụ
phẩm khác tạo ra sau quá trình sản xuất là phế phẩm, chất thải… có thể có lợi hoặc
không có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đôi khi đòi hỏi phải có chi phí rất
lớn cho việc giải quyết xử lý chúng.
+ Thông tin phản hồi; là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống sản xuất,
đó là những thông tin ngược cho biết tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất trong
thực tế của tổ chức.
+ Nhiễu: là những yếu tố làm rối loạn hoạt động của toàn bộ hệ thống sản xuất
dẫn đến không thực hiện được các mục tiêu dự kiến ban đầu. Chẳng hạn như: thiên
tai, lũ lụt, chiến tranh, khủng hoảng, sự cố máy móc, thiết bị.
1.2. Quản lý sản xuất.
Sản xuất là một trong những phân hệ và lĩnh vực hoạt động cơ bản của tổ
chức, có vai trò trực tiếp và quyết định trong việc tạo ra và cung cấp sản phẩm, dịch
vụ cho xã hội. Cũng như các phân hệ và lĩnh vực hoạt động khác, sản xuất cũng cần
được quản lý, để sản xuất đi theo đúng kế hoạch, đúng quy trình và mục tiêu của tổ
chức đã đặt ra. Như vậy quản lý sản xuất là quản lý một lĩnh vực hoạt động thiết
yếu trong các tổ chức, đặc biệt là trong doanh nghiệp. Quản lý hệ thống sản xuất sản
phẩm dịch vụ, được coi là một chức năng cơ bản trong doanh nghiệp. Ta có thể hiểu
quản lý sản xuất một cách khái quát nhất như sau:
Quản lý sản xuất là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều hành và kiểm tra hệ
thống sản xuất nhằm thực hiện tốt nhất những mục tiêu sản xuất đã đề ra.
Vì sản xuất là lĩnh vực hoạt động tồn tại trong tất cả các tổ chức, ênhà nước
chức năng quản lý sản xuất cũng có ở tất cả các tổ chức. Nhưng chức năng quản lý
sản xuất là một chức năng chủ yếu, quan trọng nhất trong các doanh nghiệp - một
loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh điển hình.
Yếu tố trung tâm của quản lý sản xuất là tác động lên quá trình sử dụng, biến
đổi, chuyển hóa các yếu tố đầu vào để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mong muốn đáp
ứng nhu cầu của xã hội.
Kết quả hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc thiết kế, tổ
chức và quản lý quá trình biến đổi này. Nhiệm vụ của quản lý sản xuất là thiết kế và
tổ chức hệ thống sản xuất nhằm biến đổi các đầu vào thành các đẩua sau mỗi quá
trình biến đổi, nhưng với một số lượng lớn hơn số lượng đầu tư ban đầu. Giá trị gia
tăng là yếu tố quan trọng nhất, là động cơ hoạt động của các doanh nghiệp và mọi tổ
chức, cá nhân có liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp giá trị
gia tăng là nguồn gốc tạo ra thu nhập cho các đối tượng có tham gia đóng góp vào
doanh nghiệp, cũng là nguồn tái đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Quản lý sản xuất có hiệu
quả là yêu cầu thiết yếu đối với quản lý một tổ chức.
2. Mục tiêu của quản lý sản xuất.
Doanh nghiệp là một tổ chức bằng nguồn lực, các phương tiện vật chất và tài
chính của mình có thể thỏa mãn những nhu cầu của khách hàng người tiêu dùng,
người sử dụng) bằng cách sản xuất sản phẩm và cung cấp các dịch vụ nói đến doanh
nghiệp, người ta thường nghĩ đến các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, thực tế
còn có các doanh nghiệp và các tổ chức cung cấp dịch vụ khác (dịch vụ, vận tải…).
Một doanh nghiệp không phải là một đơn vị độc lập màn nó sống trong mt của
nó: Trong mt sống của mình các doanh nghiệp thực hiện quá trình trao đổi vật chất
và thông tin. Các doanh nghiệp mua yếu tố sản xuất từ phía các nhà cung cấp và
tiêu thụ (bán) sản phẩm của mình cho người tiêu dùng (khách hàng). Giữa 2 quá
trình đó cần thiết phải có một quá trình chế biến các đầu vào để tạo ra các đầu ra, là
quá trình sản xuất. Các doanh nghiệp khi tiền hàng hoạt động sản xuất kinh doanh
đều nhằm mục đích sinh lợi. Và để đạt được mục tiêu này một yếu tố không thể
thiếu và vô cùng quan trọng đối với cả hệ thống tổ chức doanh nghiệp là quản lý.
Quản lý sản xuất một doanh nghiệp bắt đầu ngay từ khi doanh nghiệp đó ra đời. Và
quản lý sản xuất có mục tiêu tổng quát là đảm bảo thỏa mãn tối đa nhu cầu của
khách trên cơ sở sử dụng hiệu quả nhất các yếu tố sản xuất để tạo ra các đầu ra
mong muốn.
Nhằm thực hiện mục tiêu tổng thể này, quản lý sản xuất đặt ra các mục tiêu cụ
thể sau:
- Đảm bảo chất lượng, tăng cường đọ tin cậy bằng chất lượng sản phẩm.
Sản phẩm chế tạo ra phải phù hợp với những tiêu chuẩn được đặt ra khi thiết
kế, nghĩa là phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Chất lượng có thể được đánh
giá với những tiêu chuẩn đặt ra từ bên ngoài doanh nghiệp (ví dụ tiêu chuẩn về vệ
sinh do Nhà nước áp đặt đối với lương thực, thực phẩm hay tiêu chuẩn về an toàn
trong ngành xe cộ), chất lượng cũng có thể được đánh giá với những tiêu chuẩn nội
bộ mà chính doanh nghiệp đặt ra. Mức chất lượng cũng có thể đánh giá so với sản
phẩm của các đối thủ cạnh tranh.
- Đảm bảo thời hạn, có thể rút ngắn thời gian cung cấp sản phẩm. Nhưng thời
hạn được xác định bởi tính chất của sản phẩm và các thị trường, và cũng tùy thuộc
vào công nghệ sản xuất. Luôn phải đảm bảo tiến độ sản xuất cũng như thời hạn
cung cấp sản phẩm cho khách hàng theo nhu cầu và theo đơn đặt hàng và kế hoạch
sản xuất. Có thể rút ngắn thời gian cung cấp sản phẩm nhưng vẫn phải đảm bảo về
chất lượng.
- Giảm chi phí sản xuất.
Giảm chi phí nhằm giảm giá bán để giành được thị trường, hoặc nhằm tối đa
hóa lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều đầu tiên là doanh nghiệp phải có một hệ
thống kế tóan có hiệu lực để nắm được các thông tin chính xác về các loại chi phí.
Bộ phận sản xuất không làm chủ được lợi nhuận vì không có thẩm quyền để định
đoạt giá bán, nhưng có trách nhiệm giảm tới mức tối thiểu chi phí đối với một mức
chất lượng nhất định.
- Linh hoạt trong tổ chức.
Có nghĩa là hệ thống sản xuất của doanh nghiệp phải có khả năng phản ứng
nhanh đối với mọi biến đổi trong hoạt động (biến đổi trong thị trường, biến đổi
trong sản phẩm). Những phương pháp để đạt được mục tiêu này là đào tạo nhân sự,
có dự trữ năng lực sản xuất (năng lực sản xuất lớn hơn nhu cầu).
- Ngoài ra quản lý sản xuất còn có mục tiêu góp phần động viên, khuyến khích
người lao động để họ quan tâm đến kết quả chung của doanh nghiệp và có 1 tinh
thần làm việc say mê, sáng tạo, có hiệu quả và trách nhiệm cao.
- Cũng như các mục tiêu chung của doanh nghiệp, những mục tiêu về quản lý
sản xuất cũng phải được ấn định theo cấp bậc. Tùy theo thời điểm, tình hình, chiến
lược của doanh nghiệp thì mức độ ưu tiên và tầm quan trọng tương đối của mỗi mục
tiêu được ấn định hoặc điều chỉnh sao cho phù hợp. Giữa các mục tiêu của quản lý
sản xuất có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp,
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc
tế.
II. Chất lượng sản phẩm.
1. Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm.
1.1. Khái niệm chất lượng sản phẩm.
Hiện đang tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm, mỗi
quan điểm lại có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau.
Đối với những sản phẩm thông thường các quan điểm thường gặp là:
- Theo tính chất công nghệ của sản xuất: chất lượng sản phẩm là tổng hợp
những đặc tính bên trong của sản phẩm có thể đo được hoặc so sánh được, phản ánh
giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó. Đáp ứng cho những nhu cầu cho
trước trong những điều kiện xác định về kinh tế - xã hội.
- Theo hướng phục vụ khách hàng: chất lượng sản phẩm chính là mức độ thỏa
mãn nhu cầu hay là sự phù hợp với những đòi hỏi của người tiêu dùng.
- Theo quan niệm thị trường: chất lượng là sự kết hợp giữa các đặc tính của
sản phẩm thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng trong giới hạn chi phí nhất định.
- Các nhà kinh tế triết học Mác cho rằng: Người mua và vì hàng có giá sử
dụng và giá trị sử dụng ấy biểu hiện bằng thông số có thể đo đếm, đánh giá biểu thị
được chất lượng của hàng hóa đó. Như vậy chất lượng là giá trị sử dụng đồng nghĩa
chất lượng, là mức độ hoàn thiện mà sản phẩm đó thỏa mãn yêu cầu của người tiêu
dùng.
- Từ điển tiếng Việt phổ thông thì cho: Chất lượng là tổng thể những tính chất,
thuộc tính của sự vật (sự việc)… lên cho sự vật
việc) này phân biệt với sự vật (sự việc khác).
- Còn từ điển Oxford Pocket Dictonary lại cho: chất lượng là mức hoàn thiện,
là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các
thông số cơ bản.
- Theo tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa ở Pháp NFX 50 - 109: chất lượng là
tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử dụng.
- Theo TCVN ISO 8402: Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực tế
(đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã
nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn.
Đối với các quyết định, chất lượng được hiểu là tính hiệu quả, tính khoa học
và tính hiện thực mà quyết định đem lại cho nhà quản lý và cho những ai bị nó tác
động.
Từ những điểm hội tụ chung của các cách hiểu không giống nhau, có thể đưa
ra định nghĩa sau về chất lượng sản phẩm: chất lượng sản phẩm là các thuộc tính có
giá trị của sản phẩm mà nhờ đó sản phẩm được ưa thích, đắt giá và ngược lại.
Như vậy với các hiểu trên thì các thuộc tính của sản phẩm phải là các thuộc
tính có giá trị theo nghĩa:
+ Sản phẩm có ích cho người sử dụng nó.
+ Sản phẩm phải là loại khan hiếm.
+ Sản phẩm phải là loại có nhu cầu của người tiêu dùng.
+ Sản phẩm có khả năng chuyển giao được.
+ Sản phẩm phải đắt giá.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm.
Có rất nhiều các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm và mỗi một tổ chức,
mỗi một doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm khác nhau thì có hệ thống các chỉ
tiêu khác nhau. Theo nhà quản lý chất lượng nổi tiếng người Mỹ Joesph M. Juran:
"Chất lượng là tính thích ứng". Thích ứng tức là mức độ đáp ứng nhu cầu đối với
khách hàng của sản phẩm hoặc dịch vụ. Có 8 phương diện cũng là 8 chỉ tiêu chúng
nhất để đánh giá chất lượng sản phẩm dưới đây:
1. Tính năng: là trình độ kỹ thuật và đẳng cấp mà chức năng chính của sản
phẩm đạt được. Đó chính là tác dụng chính mà sản phẩm đem lại cho người sử dụng
nó.
2. Chức năng kèm theo: là chức năng của sản phẩm khiến cho khách hàng cảm
thấy thuận tiện hơn khi sử dụng.
3. Tính tin cậy: sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn thành đảm bảo tính chuẩn xác và
hiệu quả của chức năng.
4. Tính nhất quán: sản phẩm hoặc dịch vụ phải phù hợp với bản hướng dẫn
hoặc tiêu chuẩn đã quy định của dịch vụ.
5. Độ bền: sản phẩm hoặc dịch vụ đạt đến xác suất độ bền sử dụng tiêu chuẩn,
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
6. Sự bảo vệ: sản phẩm có dễ bảo quản và sửa chữa hay không?
7. Tính thẩm mỹ: bề ngoài của sản phẩm có tính nghệ thuật và có hấp dẫn hay
không, có đáp ứng được thị hiếu của khách hàng hay không?
8. Tính cảm quan: sản phẩm hoặc dịch vụ có khiến cho khách hàng có được
những sự liên tưởng tốt đẹp hay không?
Chất lượng sản phẩm quyết định bởi rất nhiều yếu tố, xét từ góc độ quản lý
sản xuất, tính ổn định của chất lượng sản phẩm được quyết định chủ yếu dựa vào
tính ổn định của sản xuất và quá trình tác nghiệp. Kế hoạch thực hiện luôn thay đổi,
thiết bị luôn có sự cố, công nhân thao tác luôn vắng mặt, hoạt động tác nghiệp thiếu
đi trình tự và tiêu chuẩn đều là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến chất lượng
sản phẩm không ổn định. Do vậy quản lý sản xuất để ổn định và nâng cao chất
lượng sản phẩm là điều rất quan trọng.
2. Vai trò của chất lượng sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng sản phẩm đặt lên hàng đầu và là vấn
đề sống còn của doanh nghiệp. Một sản phẩm dù đã được tung ra thị trường được
thị trường chấp nhận nhưng cũng không có ai không có gì để đảm bảo chắc chắn
rằng sản phẩm đó sẽ tiếp tục thành công nếu doanh nghiệp không duy trì và cải tiến
nâng cao chất lượng cho sản phẩm của mình. Vì thế, giữ vững và nâng cao uy tín
của sản phẩm để chiếm một vị trí đáng kể trên thị trường, để đạt được hiệu quả về
sản xuất kinh doanh của loại sản phẩm nào đó trên thị trường bắt buộc các nhà kinh
doanh luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm của mình về mọi mặt. Vậy
ta có thể khẳng định được một điều là: "Nâng cao chất lượng sản phẩm, có tầm
quan trọng sống còn đối với các doanh nghiệp". Điều này thể hiện ở chỗ:
- Chất lượng luôn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
- Nâng cao chất lượng sẽ tạo được uy tín, danh tiếng, cơ sở cho sự tồn tại, phát
triển lâu dài của doanh nghiệp.
- Tăng cường sản phẩm tương đương với tăng năng suất ld xã hội tức sẽ tạo
điều kiện cho việc tiêu thụ và nâng cao chất lượng chu chuyển trên thị trường.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm còn là biện pháp hữu hiệu kết hợp các loại lợi
ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và người ld.
- Nâng cao chất lượng sẽ góp phần quan trọng cho việc tiết kiệm nguyên vật
liệu, vật tư, năng lượng và thời gian lao động.
Bên cạnh đó nâng cao chất lượng sản phẩm còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn
bộ nền kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm là nâng cao vị trí và uy tín của doanh nghiệp
trên thương trường, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, do đó nâng cao thu
nhập cho nhà quản lý cũng như người lao động,… Như vậy nâng cao chất lượng sản
phẩm đồng nghĩa với sự phát triển kinh tế nhanh chóng và ổn định trong doanh
nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
- Chất lượng sản phẩm còn có ý nghĩa chính trị tư tưởng và xã hội to lớn. Xã
hội của chúng ta ngày càng phát triển, bảo đảm sản xuất được ra những sản phẩm có
chất lượng cao tức là đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của các
thành viên trong xã hội, khơi dậy niềm tin, sự nhiệt tình, sáng tạo và tâm huyết đối
với công việc, đối với doanh nghiệp, đối với sự phát triển của nền kinh tế của người
lao động cũng như của mọi tầng lớp thanh niên trong xã hội. Họ sẽ tin tưởng vào
khả năng tăng trưởng của nền kinh tế của dân tộc mình trên toàn thế giới, sẽ tự hào
khi nói về sản phẩm và hàng hóa của Việt Nam.
- Bên cạnh ý nghĩa trên, nâng cao chất lượng sản phẩm còn có vai trò quan
trọng với quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ
tạo cơ hội và tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh và chỗ đứng của
doanh nghiệp trên trường quốc tế. Làm được điều này cũng có nghĩa là chúng ta đã
tham gia sâu hơn và mở rộng hơn vào sự phân công lao động quốc tế.
Như vậy nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tăng thêm giá trị sử dụng cho sản
phẩm và tiết kiệm hao phí cho xã hội. Chất lượng sản phẩm chính là yêu cầu quan
trọng đối với mọi doanh nghiệp và cũng chính là vấn đề tối quan trọng cho nền kinh
tế đất nước. Nâng cao chất lượng sản phẩm có vai trò to lớn trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội nói chung và sự tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp nói
riêng.
3. Các nhân tố của quá trình sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và
vai trò của quản lý sản xuất trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
3.1. Các nhân tố của quá trình sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, chỉ trên cơ sở
xác định đầy đủ các yếu tố thì mới có thể đề xuất được những biện pháp để không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và tổ chức quản lý chặt chẽ quá trình sản xuất
kinh doanh.
Mỗi một ngành sản xuất kinh doanh có những đặc điểm riêng tuy nhiên ta chỉ
xét các yếu tố của quá trình sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Có thể
phân loại thành một số nhóm yếu tố sau:
3.1.1. Phương thức và công nghệ sản xuất.
Phương thức sản xuất chính là những cách thức sử dụng n