Trong lịch sử, đặc biệt là trong thập kỷ 60,70 rất nhiều quốc gia do chưa 
nhận thức đầy đủ về vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong tiến trình công 
nghiệp hoá- hiện đại hoá và thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc gia nên đã sử 
dụng chính sách tẩy chay, áp chế đối với các công ty xuyên quốc gia hoạt động 
trên lãnh thổ nước mình. Từ thập kỷ 80 trở lại đây, nền kinh tế thế giới đã có 
nhiều biến đổi sâu sắc. Cơ cấu nền kinh tế thế giới đã thay đổi, làn sóng cải cách 
điều chỉnh thể chế lan tràn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới .Kết quả là tất 
cả các quốc gia đều thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế và chính sách thu 
hút đầu tư nước ngoài phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh 
tế quốc gia. Chính vì vậy mà nửa sau thập kỷ 80 tốc độ của luồng đầu tư trực 
tiếp nước ngoài vào mỗi quốc gia không ngừng tăng lên. Tốc độ này thậm chí đã 
vượt quá tốc độ tăng trưởng của sản xuất và thương mại quốc tế. Tiến trình toàn 
cầu hoá sản xuất kinh doanh được thúc đẩy nhanh chóng. Nhờ có đầu tư trực 
tiếp của các TNCs nhiều nước trên thế giới đã có thêm nguồn lực để phát triển. 
Thực tế đó đã buộc nhiều nhà kinh tế chính trị đứng đầu các quốc gia nhận thức 
lại vai trò của các công ty này trong quá trình tiến lên phía trước của nền kinh tế 
đất nước. Xu hướng hoà nhập nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới, tích 
cực thu hút đầu tư nước ngoài và sử dụng các TNCs trong quá trính phát triển 
kinh tế xã hội trở thành xu hướng khách quan không thể đảo ngược. Chính vì 
vậy, trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh tạo môi trường và điều kiện 
thuận lợi để thu hút đầu tư của các TNCs vào nước mình. Một số chính sách ưu 
đãi như quyền thiết lập công ty, đãi ngộ công bằng đối với nhà đầu tư nước 
ngoài, giải quyết tranh chấp, bồi thường khi quốc hữu hoá.hiện nay đã được áp 
dụng phổ biến. Sự thu hẹp những chênh lệch về thể chế trong thu hút các TNCs 
của các nước khiến cho tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Trước bối cảnh đó, Việt Nam cũng đã dần dần thay đổi quan điểm của 
mình về các công ty xuyên quốc gia. Việt Nam nhìn nhận khách quan hơn về về 
vai trò tích cực và cần thiết của các TNCs trong quá trình phát triển đất nước. 
Việc nghiên cứu về các TNCs cũng vì thế mà được quan tâm hơn nhưng còn 
nhiều hạn chế. ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về các TNCs như 
sau:
- Nguyễn Khắc Thân: ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia đối với nền 
kinh tế các nước ASEAN (Luận án tiến sỹ kinh tế)
- Nguyễn Khắc Thân: Các công ty xuyên quốc gia hiện đại, Nhà xuất bản chính 
trị quốc gia (1995).
- Lê Văn Sang- Trần Quang Lâm: Các TNCs trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nhà 
xuất bản khoa học xã hội (1996)
- Học viện quan hệ quốc tế: Đầu tư của các TNCs, Nhà xuất bản chính trị quốc 
gia (1996).
Mỗi công trình trên đều đề cập đến một khía cạnh nhất định nào đó liên 
quan đến các TNCs. Nhưng nhìn chung các công trình đều chỉ nghiên cứu về 
các TNCs nói chung trên thế giới hoặc có đề cập đến hoạt động của các công ty 
này ở Việt Nam nhưng còn mang tính chất nêu sự kiện mà chưa có những đánh 
giá thật sát các vấn đề, tìm ra nguyên nhân và đưa các giải pháp nhằm thu hút 
được nhiều hơn nữa các TNCs vào Việt Nam. 
Với tất cả những lý do trên, sau khi kết thúc kỳ thực tập tốt nghiệp tại Viện 
kinh tế thế giới, em chọn đề tài “Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại 
Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” nhằm nghiên cứu sâu hơn hoạt động đầu 
tư tại Việt Nam của các TNCs bên cạnh đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng 
cường thu hút FDI tại Việt Nam thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động đầu tư trực tiếp 
của các TNCs tại Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Vì các TNCs hoạt động ở 
những ngành nghề mang tính cạnh tranh cao, nên số liệu của chúng được công 
bố không cập nhật (để đảm bảo tính cạnh tranh, mong bạn đọc thông cảm v à 
góp ý thêm. 
Kết cấu của bài viết, ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham 
khảo, thì nội dung chính gồm có ba chương:
Chương 1: Lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và công ty xuyên quốc gia
Chương II: Tình hình đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt 
Nam thời gian qua
Chương III: Quan điểm và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của 
các công ty xuyên quốc gia
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 115 trang
115 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2579 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
Luận văn 
Hoạt động đầu tư trực tiếp 
của các TNCs tại Việt Nam- 
Thực trạng và giải pháp 
 2 
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 
 FDI :Đầu tư trực tiếp nước ngoài 
 ĐTNN : Đầu tư nước ngoài 
 TNCs : Công ty xuyên quốc gia 
 KCN : Khu công nghiệp 
 KCX : Khu chế xuất 
 VĐT : Vốn đầu tư 
 VPĐ : Vốn pháp định 
 ĐTTH : Đầu tư thực hiện 
 TVĐT : Tổng vốn đầu tư 
 FVPĐ : Vốn pháp định do bên nước ngoài góp 
 FĐTTH : Vốn đầu tư thực hiện do bên nước ngoài góp 
 SDA : Số dự án 
 3 
 LỜI MỞ ĐẦU 
Trong lịch sử, đặc biệt là trong thập kỷ 60,70 rất nhiều quốc gia do chưa 
nhận thức đầy đủ về vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong tiến trình công 
nghiệp hoá- hiện đại hoá và thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc gia nên đã sử 
dụng chính sách tẩy chay, áp chế đối với các công ty xuyên quốc gia hoạt động 
trên lãnh thổ nước mình. Từ thập kỷ 80 trở lại đây, nền kinh tế thế giới đã có 
nhiều biến đổi sâu sắc. Cơ cấu nền kinh tế thế giới đã thay đổi, làn sóng cải cách 
điều chỉnh thể chế lan tràn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ...Kết quả là tất 
cả các quốc gia đều thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế và chính sách thu 
hút đầu tư nước ngoài phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh 
tế quốc gia. Chính vì vậy mà nửa sau thập kỷ 80 tốc độ của luồng đầu tư trực 
tiếp nước ngoài vào mỗi quốc gia không ngừng tăng lên. Tốc độ này thậm chí đã 
vượt quá tốc độ tăng trưởng của sản xuất và thương mại quốc tế. Tiến trình toàn 
cầu hoá sản xuất kinh doanh được thúc đẩy nhanh chóng. Nhờ có đầu tư trực 
tiếp của các TNCs nhiều nước trên thế giới đã có thêm nguồn lực để phát triển. 
Thực tế đó đã buộc nhiều nhà kinh tế chính trị đứng đầu các quốc gia nhận thức 
lại vai trò của các công ty này trong quá trình tiến lên phía trước của nền kinh tế 
đất nước. Xu hướng hoà nhập nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới, tích 
cực thu hút đầu tư nước ngoài và sử dụng các TNCs trong quá trính phát triển 
kinh tế xã hội trở thành xu hướng khách quan không thể đảo ngược. Chính vì 
vậy, trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh tạo môi trường và điều kiện 
thuận lợi để thu hút đầu tư của các TNCs vào nước mình. Một số chính sách ưu 
đãi như quyền thiết lập công ty, đãi ngộ công bằng đối với nhà đầu tư nước 
ngoài, giải quyết tranh chấp, bồi thường khi quốc hữu hoá...hiện nay đã được áp 
dụng phổ biến. Sự thu hẹp những chênh lệch về thể chế trong thu hút các TNCs 
của các nước khiến cho tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt. 
Trước bối cảnh đó, Việt Nam cũng đã dần dần thay đổi quan điểm của 
mình về các công ty xuyên quốc gia. Việt Nam nhìn nhận khách quan hơn về về 
 4 
vai trò tích cực và cần thiết của các TNCs trong quá trình phát triển đất nước. 
Việc nghiên cứu về các TNCs cũng vì thế mà được quan tâm hơn nhưng còn 
nhiều hạn chế. ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về các TNCs như 
sau: 
- Nguyễn Khắc Thân: ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia đối với nền 
kinh tế các nước ASEAN (Luận án tiến sỹ kinh tế) 
- Nguyễn Khắc Thân: Các công ty xuyên quốc gia hiện đại, Nhà xuất bản chính 
trị quốc gia (1995). 
- Lê Văn Sang- Trần Quang Lâm: Các TNCs trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nhà 
xuất bản khoa học xã hội (1996) 
- Học viện quan hệ quốc tế: Đầu tư của các TNCs, Nhà xuất bản chính trị quốc 
gia (1996). 
Mỗi công trình trên đều đề cập đến một khía cạnh nhất định nào đó liên 
quan đến các TNCs. Nhưng nhìn chung các công trình đều chỉ nghiên cứu về 
các TNCs nói chung trên thế giới hoặc có đề cập đến hoạt động của các công ty 
này ở Việt Nam nhưng còn mang tính chất nêu sự kiện mà chưa có những đánh 
giá thật sát các vấn đề, tìm ra nguyên nhân và đưa các giải pháp nhằm thu hút 
được nhiều hơn nữa các TNCs vào Việt Nam. 
Với tất cả những lý do trên, sau khi kết thúc kỳ thực tập tốt nghiệp tại Viện 
kinh tế thế giới, em chọn đề tài “Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại 
Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” nhằm nghiên cứu sâu hơn hoạt động đầu 
tư tại Việt Nam của các TNCs bên cạnh đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng 
cường thu hút FDI tại Việt Nam thời gian tới. 
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động đầu tư trực tiếp 
của các TNCs tại Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Vì các TNCs hoạt động ở 
những ngành nghề mang tính cạnh tranh cao, nên số liệu của chúng được công 
bố không cập nhật (để đảm bảo tính cạnh tranh, mong bạn đọc thông cảm và 
góp ý thêm. 
 5 
Kết cấu của bài viết, ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham 
khảo, thì nội dung chính gồm có ba chương: 
Chương 1: Lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và công ty xuyên quốc gia 
Chương II: Tình hình đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt 
Nam thời gian qua 
Chương III: Quan điểm và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của 
các công ty xuyên quốc gia 
CHƯƠNG I 
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC CÔNG TY 
XUYÊN QUỐC GIA 
I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 
1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 
 1.1 Khái niệm 
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu 
tư và người sử dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá 
nhân người nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, 
sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra. 
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình đầu tư quốc tế được thực hiện 
thông qua việc thành lập các công ty con để mở rộng phạm vi hoạt động kinh 
doanh của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân ra toàn cầu. Việc mở rộng sản xuất 
thông qua các hình thức FDI không chỉ đơn thuần là sự chu chuyển tài chính 
quốc tế mà cùng với nó là sự chuyển giao công nghệ, bí quyết quản lý và các tài 
sản vô hình khác. 
1.2 Đặc điểm của FDI 
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự 
quyết định sản xuất kinh doanh dịch vụ và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình 
thức đầu tư này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng 
buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. 
 6 
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh 
nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh 
tuỳ thuộc tỷ lệ góp vốn. 
- Thông qua FDI nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên 
tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý,...là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư 
khác không giải quyết được. 
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư 
dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả 
vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu 
tư từ nguồn lợi nhuận thu được. 
2. Tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư 
2.1 Những tác động tích cực 
*- Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ xung một nguồn vốn quan trọng 
cho đầu tư phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong 
nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. Điều này dẫn đến việc tác 
động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. 
 Ta hãy xem xét chỉ số ICOR- là lượng vốn đầu tư cần thiết để làm gia tăng 
một đơn vị GDP. 
 ICOR=Vốn đầu tư/ Mức tăng GDP, nên Mức tăng GDP= Vốn đầu tư/ 
ICOR. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu 
tư. Điều này có nghĩa là nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần không nhỏ trong 
việc bổ xung vào tổng vốn đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. 
*- Cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước 
ngoài, các công ty chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đã chuyển giao công 
nghệ từ nước mình hoặc các nước khác sang các nước nhận đầu tư. Chính nhờ sự 
chuyển giao này mà nước chủ nhà nhận được kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm 
quản lý, năng lực Marketing, đội ngũ lao động được đào tạo rèn luyện về nhiều 
mặt. 
 7 
*- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát 
triển, tính năng động và khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước ngày càng 
được tăng cường, các tiềm năng cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước có 
điều kiện để khai thác và được khai thác. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến việc 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm 
và lao động, cơ cấu lãnh thổ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp ứng 
tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phù hợp với xu thế 
chung của thời đại, của các nước trong khu vực; nước chủ nhà có thêm điều kiện 
để mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, có chỗ đứng trong thị trường quốc tế. 
*- Với việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà không phải lo trả 
nợ. Thông qua hợp tác với chủ đầu tư nước ngoài, nước chủ nhà có điều kiện 
thâm nhập vào thị trường thế giới nơi chu đầu tư có chỗ đứng. 
*- Trường hợp sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, nước nhận đầu tư có được 
hàng hoá cần thiết với giá cả thấp hơn giá nhập từ nước ngoài nhờ tiết kiệm được 
chi phí vận chuyển và những lợi thế về lao động, về nguồn nguyên liệu trong 
nước. 
 Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu khách quan 
trong điều kiện quốc tế hoá nền sản xuất lưu thông. Có thể nói, hiện nay không 
một quốc gia nào nào dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay định 
hướng xã hội chủ nghĩa lại không cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước 
ngoài và coi đó là một nguồn lực cần khai thác để hoà nhập vào cộng đồng quốc 
tế. 
2.2 Những tác động tiêu cực 
- Nếu nước nhận đầu tư không có một chiến lược đúng đắn và quản lý chặt chẽ 
sẽ dẫn đến nguồn FDI tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên dễ bị khai 
thác quá mức và gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. 
 Thông thường nguồn FDI vào các nước đang và kém phát triển chủ yếu là 
để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ. Chính vì các 
 8 
nước đang và kém phát triển chưa có một nền khoa học công nghệ đủ tiên tiến để 
khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách có hiệu quả, là lý do để các nước phát 
triển thực hiện FDI để khai thác tài nguyên. Mục đích thực hiện FDI là tối đa hoá 
lợi nhuận cho chủ đầu tư, nên các nhà đầu tư có thể không ngần ngại khai thác 
tối đa những gì có lợi cho mình, dẫn đến việc cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi 
trường...Điều này đã và đang xảy ra ở nhiều nước, vì thế ngay từ khi có kế hoạch 
thu hút một dự án FDI nào đó, mỗi nước nhận đầu tư phải có một kế hoạch cụ 
thể về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. 
- Tăng tính bất ổn định của thị trường tài chính quốc gia, tăng nguy cơ lạm phát 
và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế. 
- Giảm khả năng kiểm soát nền kinh tế. 
 Khi chủ đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư theo hình thức FDI tức là họ 
muốn tự quản lý và điều hành hoạt động đầu tư theo ý của mình. Ngay cả những 
công cụ vĩ mô của Nhà nước cũng chỉ quản lý được họ ở một mức độ nhất định 
(như thẩm định ngành nghề để cấp phép đầu tư, quản lý hoạt động của dự án 
thông qua công cụ thuế quan...), còn nhiều vấn đề trong hoạt động của dự án thì 
không thể kiểm soát được, chính vì thế nó làm giảm khả năng kiểm soát nền kinh 
tế là điều tất yếu khi nước nhận đầu tư không có đủ trình độ quản lý một cách 
hiệu quả. 
- Tăng sự phụ thuộc vào tình hình kinh tế chính trị bên ngoài. Vì đây là nguồn 
vốn của nước ngoài, nên mỗi sự biến động của nước đi đầu tư cũng làm ảnh 
hưởng đến nước nhận đầu tư cũng là điều dễ hiểu. 
- Nếu nước nhận đầu tư không có trình độ đánh giá công nghệ thì dễ có nguy cơ 
bị chuyển giao những công nghệ lạc hậu, trở thành bãi thải của những nước phát 
triển 
3. Các hình thức FDI 
3.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh: 
 9 
 Là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu 
tư kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định rõ trách nhiệm và phân chia 
kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới 
- Hình thức đầu tư này không thành lập một pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư, 
và vậy các bên tham gia vẫn giữ nguyên tư cách pháp lý của mình và chụi trách 
nhiệm tài chính độc lập 
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên ký. Thời 
hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được cơ quan có thẩm 
quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y. 
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng, không đòi hỏi vốn lớn, những nhà 
đầu tư nước ngoài có ít tiềm lực thường thích loại này. 
 10 
3.2 Doanh nghiệp liên doanh: 
 Do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh , 
cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. 
 Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm 
hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên 
doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh theo tỷ lệ 
vốn góp. 
 Đây là loại hình được nước chủ nhà ưa chuộng vì có điều kiện để học hỏi 
kinh nghiệm quản lý, đào tạo lao động, gián tiếp nhanh chóng có chỗ đứng trên 
thị trường thế giới. Loại hình đầu tư này được nước chủ nhà áp dụng đối với 
công cuộc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội vì sự phát huy tác dụng của các 
kết quả đâu tư này đòi hỏi phải được kiểm soát chặt chễ. Tuy nhiên áp dụng hình 
thức đầu tư này đòi hởi phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quản 
lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì nước chủ nhà mới đạt được hiệu quả 
mong muốn. 
3.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 
 Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư 
nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quả lý và tự chịu trách nhiệm về kết 
quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được 
thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo 
pháp luật nước chủ nhà. 
 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lúc đầu không được người nước ngoài 
ưa thích vì họ muốn chia sẻ rủi ro với nước chủ nhà. Tuy nhiên sau một thời gian 
hoạt động , hình thức này ngày càng được các nhà đầu tư yêu thích vì được tự 
mình quản lý và hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo ra. 
 Một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là: Hợp 
đồng xây dựng kinh doanh chuyển gia (BOT), hợp đồng xây dựng chuyển giao 
 11 
kinh doanh(BTO), Hợp đồng xây dựng chuyển giao (BT). Đây là các dạng đầu 
tư áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. 
4. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến FDI vào các nước đang phát triển 
 Hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư phát triển của các quốc gia rất lớn và ngày 
một tăng nhưng khả năng thanh toán cung cấp vốn đầu tư rất hạn chế, do đó 
quan hệ cung cầu về vốn trên thế giới trở nên căng thẳng. Khả năng thu hút vốn 
đầu tư của các quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ta xem xét các vấn đề sau 
đây 
4.1. Những xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới hiện nay 
 Dòng vốn FDI trên thế giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của 
các nước công nghiệp phát triển 
 Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh 
công ty ở nước ngoài (M&A) đã bùng nổ trong những năm qua, trở thành chiến 
lược hợp tác phát triển chính của các TNCs. 
 Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới: trong những năm 
gần đây đã xuất hiện những xu hướng mới là đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, 
lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực khai khoáng và dầu khí… vì mục tiêu chủ yếu của các 
chủ đầu tư là lợi nhuận. Do đó khi đầu tư vào những lĩnh vực này, lợi nhuận cao 
giúp chủ đầu tư thu hồi vốn một cách nhanh chóng. 
 Các nước Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật chi phối dòng vận động chính của vốn 
FDI (vào, ra) trên thế giới. 
 Các tập đoàn TNCs đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tư trực tiếp ra nước 
ngoài và đang đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài 
 Dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là các 
nước đang phát triển ở Châu Á 
4.2. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến FDI vào các nước đang phát triển 
 Hoạt động FDI chỉ được tiến hành khi xuất hiện những điều kiện khách 
quan của nó. Các điều kiện đó chung quy lại là giữa các nước tồn tại sự khác 
 12 
nhau về khả năng tích luỹ, huy động vốn, trình độ công nghệ và khả năng quản 
lý, giá nhân công, giá cả các hàng hoá dịch vụ, số lượng và chất lượng các nguồn 
lực của sản xuất, thể chế chính sách... 
 Mục đích cơ bản của các nhà đầu tư khi thực hiện FDI là tối đa hoá lợi ích, 
vì thế việc thực hiện FDI vào các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng của các 
yếu tố sau: 
 Môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư: 
 Có thể nói rằng môi trường nước nhận đầu tư ảnh hưởng rất lớn đến việc 
thu hút FDI vào nước đó. Cụ thể như là : Nếu nước nhận đầu tư có một môi 
trường hấp dẫn (ổn định chính trị, các chính sách pháp luật thông thoáng, nhiều 
điều kiện ưu đãi đầu tư…) thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều FDI hơn. 
Môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư bao gồm 
- Sự ổn định về chính trị; 
- Môi trường chính sách, pháp luật của nước nhận đầu tư như các chính sách về 
sở hữu vốn, về lĩnh vực ngành nghề hoạt động. Theo các nhà phân tích thì một 
quốc gia với một chính sách không có giới hạn trên và giới hạn dưới của tỷ lệ 
vốn sở hữu thì được đánh giá là thu hút đầu tư nước ngoài thuận lợi nhất. 
- Các chính sách về thuế và định mức thuế 
- Các quy định về lệ phí và giá cả 
- Các chính sách về quản lý ngoại hối: nếu nước nhận đầu tư có các chính sách 
thông thoáng về việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài thì thu hút được lượng FDI 
nhiều hơn 
- Các chính sách liên quan đến quản lý đầu tư nước ngoài: Thể hiện ở mức độ 
can thiệp của nước chủ nhà đến sự hoạt động của FDI, phải đảm bảo không có sự 
chồng chéo, gây phiền hà cho chủ đầu tư 
- Các chính sách và quy định khác: như chính sách liên quan đến vấn đề bảo về 
môi trường, đến chuyển giao công nghệ, đến sử dụng lao động, thủ tục hải quan, 
xuất nhập cảnh... 
 13 
 Ở các nước đang phát triển, với những chính sách hợp lý về các vấn đề sở 
hữu vốn, về thuế, về xuất nhập cảnh... nên việc thu hút FDI ngày càng thuận lợi 
hơn. 
 Mặt khác, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng thuế quan, hạn 
ngạch và các hình thức phi thuế quan khác để kiểm soát việc nhập khẩu các hàng 
hoá và dịch vụ, thậm chí đối với một số loại hàng hóa nào đó còn bị cấm nhập 
khẩu. Thông thường, chính phủ của các quốc gia kiểm soát thương mại quốc tế 
nhằm mục đích tăng thu ngân sách, bảo hộ các ngành trong nước và thực hiện 
các mục tiêu chính sách kinh tế của mình. Trong điều kiện đó, các công ty thay 
vì xuất khẩu hàng hoá, họ tính tới việc thiết lập một dây chuyền sản xuất ở nước 
ngoài nhằm lẩn tránh các hàng rào thương mại 
 Ngoài thuế quan và hạn ngạch, chi phí vận tải cũng là một bộ phận cấu 
thành của hàng rào thương mại. Các loại sản phẩm như khoáng sản, xi măng, vật 
liệu xây dựng... có hàm lượng giá trị tương đối thấp, lại cồng kềnh nên chi phí 
vận chuyển chúng đã thực sự làm giảm lợi nhuận của nhà sản xuất và là trở ngại 
thực sự cho việc xuất khẩu. Trong các trường hợp như vậy, các nhà sản xuất thay 
vì xuất khẩu hàng hoá, họ xuất khẩu tư bản hay còn gọi là thực hiện FDI để giảm 
phí vận chuyển nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình. 
 Nguồn lao động 
 Điều các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm là số lượng và chất lượng và giá 
cả nguồn lao động. Ở một nước mà lao động rẻ, chất lượng tốt thì sẽ nâng cao 
khả năng thu hút được đầu tư nước ngoài vào nước mình, còn ngược lại thì sẽ 
làm cho các nhà đầu tư nước ngoài phân vân. Bởi vì khi quyết định đầu tư vào 
một nước nào đó, ngoài một số yếu tố như khai thác được nguyên vật liệu rẻ, thì 
vấn đề giá cả và chất lượng nguồn lao động là điều mà nhà đầu tư nước ngoài vô 
cùng quan tâm. 
 14 
 Để tạo thêm lợi nhuận, nhà sản xuất cần mở rộng qui mô sản xuất của mình. 
Qua đó, làm nẩy sinh một lượng cầu lớn hơn về hai loại yếu tố đầu vào cơ bản 
của sản xuất là nguyên liệu và lao động. 
 Nhóm yếu tố thứ nhất - Là các loại hàng hoá thông thường. Chúng được tự 
do vận chuyển, mua