Công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và 
rất quan trọng về kinh tế - xã hội. Chặng đường đổi mới tiếp theo đòi hỏi 
chúng ta phải tìm tòi, nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết nhiều vấn đề mới mẻ 
và phức tạp của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong đó hợp 
đồng ngoại thương là khâu trọng yếu luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm 
nhiều nhất.
Giai đoạn 1975 - 1985 đất nước thống nhất, chúng ta có điều kiện và 
khả năng khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước để đẩy mạnh 
ngoại thương phát triển mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước 
ngoài thu hút vốn và kỹ thuật tiên tiến của thế giới.
Bên cạnh đó chúng ta cũng còn gặp nhiều khó khăn bắt nguồn từ chế độ 
kinh tế của nước nhà, cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu kinh tế hàng hoá 
chưa phát triển, chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và còn bị lệ thuộc 
nhiều vào bên ngoài. Mặt khác do chiến tránh kéo dài đã gây ra những vết 
thương về kinh tế - xã hội mà hàng thế hệ mới hàn gắn được.
Giai đoạn này chúng ta đã thực hiện chế độ độc quyền về ngoại thương-điều này được ghi nhận trong hiến pháp 1980 tại điều 21:"Nhà nước độc 
quyền quản lý ngoại thương và các quan hệ kinh tế khác".
Việc ghi nhận nguyên tắc độc quyền về ngoại thương trong hiến pháp là 
nền tảng vững chắc cho toàn bộ pháp luật về ngoại thương Việt Nam trong 
giai đoạn này điểm nổi bật của chế độ này là chỉ các tổ chức ngoại thương 
của nhà nước mới được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, mọi hoạt động về 
kinh tế đối ngoại đều do nhà nước quyết định theo chỉ tiêu pháp lệnh do Bộ 
ngoại thương trực tiếp quản lý điều hành. Bộ ngoại thương đã can thiệp sâu 
vào các công việc cụ thể của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, chính vì 
3
vậy đã làm mất đi khả năng sáng tạo tính linh hoạt trong kinh doanh, kết quả 
là hợp đồng ngoại thương kém hiệu quả.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2421 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng ngoại thương-Những vấn đề pháp lý cơ bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
Luận văn 
GIẢI QUYẾT TRANH 
CHẤP PHÁT SINH TỪ 
HỢP ĐỒNG NGOẠI 
THƯƠNG 
2 
Phần I 
VAI TRÒ CỦA HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI 
HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG 
I. VAI TRÒ CỦA NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NƯỚC TA. 
1. Ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. 
Công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và 
rất quan trọng về kinh tế - xã hội. Chặng đường đổi mới tiếp theo đòi hỏi 
chúng ta phải tìm tòi, nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết nhiều vấn đề mới mẻ 
và phức tạp của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong đó hợp 
đồng ngoại thương là khâu trọng yếu luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm 
nhiều nhất. 
Giai đoạn 1975 - 1985 đất nước thống nhất, chúng ta có điều kiện và 
khả năng khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước để đẩy mạnh 
ngoại thương phát triển mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước 
ngoài thu hút vốn và kỹ thuật tiên tiến của thế giới. 
Bên cạnh đó chúng ta cũng còn gặp nhiều khó khăn bắt nguồn từ chế độ 
kinh tế của nước nhà, cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu kinh tế hàng hoá 
chưa phát triển, chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và còn bị lệ thuộc 
nhiều vào bên ngoài. Mặt khác do chiến tránh kéo dài đã gây ra những vết 
thương về kinh tế - xã hội mà hàng thế hệ mới hàn gắn được. 
Giai đoạn này chúng ta đã thực hiện chế độ độc quyền về ngoại thương- 
điều này được ghi nhận trong hiến pháp 1980 tại điều 21:"Nhà nước độc 
quyền quản lý ngoại thương và các quan hệ kinh tế khác". 
Việc ghi nhận nguyên tắc độc quyền về ngoại thương trong hiến pháp là 
nền tảng vững chắc cho toàn bộ pháp luật về ngoại thương Việt Nam trong 
giai đoạn này điểm nổi bật của chế độ này là chỉ các tổ chức ngoại thương 
của nhà nước mới được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, mọi hoạt động về 
kinh tế đối ngoại đều do nhà nước quyết định theo chỉ tiêu pháp lệnh do Bộ 
ngoại thương trực tiếp quản lý điều hành. Bộ ngoại thương đã can thiệp sâu 
vào các công việc cụ thể của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, chính vì 
3 
vậy đã làm mất đi khả năng sáng tạo tính linh hoạt trong kinh doanh, kết quả 
là hợp đồng ngoại thương kém hiệu quả. 
Cuối 1986 thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề 
ra, kinh tế đối ngoại đã được coi là mũi nhọn của sự nghiệp đổi mới, xuất 
khẩu được còn là một trong 3 chương trình kinh tế trọng điểm. 
Chế độ Nhà nước độc quyền về ngoại thương đã bị bãi bỏ, các hoạt 
động về kinh tế đối ngoại đã điều chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự 
điều tiết cuả nhà nước. 
Từ năm 1987 chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành 
phần kinh tế tham gia vào sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu tuy nhiên 
doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm ưu thế hơn. 
Ngày 7/4/1992 HĐBT (nay là chính phủ) đã ban hành nghị định số 
114/HĐBT qui định về quản lý nhà nước đối với xuất nhập khẩu. Theo nghị 
định 114 các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải đáp ứng được 
những điều kiện: 
Được thành lập theo đúng pháp luật, hoạt động theo đúng ngnàh hàng đã 
đăng ký, phải có vốn lưu động bằng tiền Việt Nam tương đương với 200.000 
USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu, số vốn này phải được 
xác định về mặt pháp lý. 
Có thể thấy những yêu cầu để được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập 
khẩu đã trở thành một cản trở không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong 
nước. Yêu cầu về số vốn không dưới 200.000USD là một sự thách đố đối với 
các doanh nghiệp, và các nhà doanh nghiệp được cấp giấy phép cũng chỉ 
được phép XNK mặt hàng đã đăng ký. Do đó đã làm thu hẹp rất nhiều phạm 
vi hoạt động của các doanh nghiệp cản trở việc đa dạng hoá các sản phẩm 
xuất khẩu giảm hiệu quả kinh tế trong hợp đồng ngoại thương. 
Đầu năm 1997, luật thương mại đã được Quốc hội thông qua đặt nền 
tảng cho những thay đổi căn bản trong hệ thống quản lý ngoại thương của 
Việt Nam. 
Năm 1998 chúng ta đã chứng kiến những thay đổi căn bản về quyền 
kinh doanh ngoại thương đó là việc Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định 
4 
cho phép tất cả các doanh nghiệp Việt Nam được tham gia trực tiếp vào hoạt 
động XNK mà không phải đáp ứng bất cứ điều kiện gì ngoài việc phải tự 
đăng ký mã số hàng hoá của mình tại cơ quan hải quan. 
Ngày 31/7/98 Chính phủ ban hành nghị định 57/1998/NĐ - CP quy định 
chi tiết luật thương mại về hoạt động XNK gia công và đại lý mua bán hàng 
hoá với nước ngoài, theo khoản 1 điều 8 thì thương nhân là doanh nghiệp 
thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quyết định của pháp luật 
được phép XNK hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký, giấy chứng nhận 
đăng ký kinh doanh. 
Cũng theo khoản 3 điều 8 nghị định 57 thì các doanh nghiệp thuộc mọi 
thành phần kinh tế khi (tham gia) hoạt động kinh doanh XNK không phải xin 
giấy phép kinh doanh XNK của bộ thương mại nữa mà trước khi kinh doanh 
XNK doanh nghiệp phải đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh XNK tại 
cục Hải quan tỉnh, thành phố. Bên cạnh đa dạng hoá và đa phương hoá các 
mối quan hệ kinh tế với nước ngoài là một trong những thành tựu nổi bật của 
chính sách đổi mới do Đảng ta khởi xướng. 
Cho tới nay Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với 104 nước và vùng lãnh 
thổ trên thế giới trong đó đã ký hiệp định thương mại với 60 nước, ký hiệp 
định khung và hiệp định hàng dệt may với liên minh châu âu (theo tạp chí 
kinh tế và dự báo số 4/1999). 
Ngày 13/07/2000 (14/7 theo giờ Việt Nam) tại Oasinton, thay mặt chính 
phủ Việt Nam, bộ trưởng Bộ thương mại Vũ khoan đã ký hiệp định thương 
mại với Hoa kỳ, đây chính là mối quan trọng đánh dấu sự bình thường hoá 
hoàn toàn giữa Việt Nam và Hoa kỳ. 
Hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN năm 1995, và 
APEC năm 1998. Việt nam cũng tham gia tích cực vào các hoạt động trong 
khuôn khổ hợp tác á - Âu và đang trong qúa trình chuẩn bị những bước cơ 
bản để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. 
Đó là những điều kiện thuận lợi để chúng ta có thể đẩy nhanh tốc độ 
phát triển kinh tế mở rộng buôn bán và hợp tác kinh tế với các nước và các tổ 
chức kinh tế trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. 
5 
2. Vai trò của xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế nước nhà. 
2.1. Vai trò của xuất khẩu. 
Xuất khẩu là một trong những hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại, là 
phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 
Việc mở rộng các hoạt động xuất khẩu làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho 
tài chính. Đáp ứng nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho sự phát triển 
cơ sở hạ tầng. 
Thứ nhất: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ 
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước theo những bước đi thích hợp 
là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nạn lạc hậu của nước ta. 
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có một số ngoại tệ lớn 
để nhập khẩu các máy móc thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhanh tốc độ 
xuất khẩu để đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự nghiệp phát 
triển kinh tế nước nhà. 
Thứ hai: Xuất khẩu góp phần vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc 
đẩy sản xuất phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu hướng 
phát triển của nền kinh tế thế giới là một đòi hỏi tất yếu đối với nền kinh tế 
nước ta. 
Thứ ba: xuất khẩu không những thúc đẩy sự phát triển của chính ngành 
nghề xuất khẩu mà còn tạo điều kiện cho các ngành nghề khác phát triển 
thuận lợi. 
Chẳng hạn khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho 
các ngành sản xuất nguyên liệu như trồng bông, tơ tằm… phát triển … 
Thứ tư: Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và 
nâng cao năng lực sản xuất trong nước, nói cách khác xuất khẩu tạo ra vốn, 
kỹ thuật công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam, hiện đại hoá nền sản xuất 
trong nước tạo ra năng lực sản xuất mới. 
Xuất khẩu còn là cơ sở đề mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối 
ngoại, xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại tạo điều kiện thúc đẩy 
các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển. 
6 
Chẳng hạn xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ thúc 
đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế… ngược lại chính các quan hệ 
kinh tế đối ngoại này sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng các hoạt động xuất 
khẩu. 
2.2. Vai trò của nhập khẩu. 
Nhập khẩu là hoạt động quan trọng có tác dụng (trực tiếp) tới hoạt động 
sản xuất và đời sống trong nước nhập khẩu nhằm bổ sung những hàng hoá 
mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ để đáp ứng nhu 
cầu trong nước. Cụ thể như sau: 
Thứ nhất: Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Thứ hai: Nhập khẩu bổ sung kịp thời các mặt mất cân đối của nền kinh 
tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối ổn định. 
Thứ ba: Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân 
dân. Thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người tiêu dùng, đảm bảo đầu vào cho 
sản xuất tạo việc làm cho người lao động. 
Thứ tư: Nhập khẩu có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy hoạt động xuất 
khẩu thể hiện: nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu tạo môi 
trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài. 
Ở Việt Nam do việc mở rộng hợp đồng ngoại thương nên nguồn thu từ 
thuế XNK cũng tăng lên qua các năm và đóng góp phần đáng kể vào nguồn 
thu của ngân sách nhà nước. 
II. HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH 
DOANH XNK. 
1. Khái niệm về hợp đồng mua bán ngoại thương 
Với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất và phân công lao 
động trên quy mô toàn thế giới đang diễn ra ngày càng sâu sắc xuất hiện ngày 
càng nhiều các hình thức hợp tác. Tuy vậy trao đổi hàng hoá vốn là một hình 
thức mang tính chất cổ điển của quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ kinh tế 
quốc tế nói riêng và có vị trí quan trọng bậc nhất trong các hoạt động kinh tế 
đối ngoại. 
7 
Để các hoạt động trao đổi hàng hoá được diễn ra thuận lợi đòi hỏi phải 
có cơ sở pháp lý nhất định cho các bên thông qua một hình thức pháp lý nhất 
định. Hợp đồng mua bán ngoại thương là hình thức pháp lý cơ bản của trao 
đổi hàng hoá quốc tế. 
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về khái niệm hợp đồng mua bán 
ngoại thương. Tuy nhiên trong mọi hợp đồng mua bán bao giờ cũng có ít nhất 
hai bên chủ thể là bên bán và bên mua các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng 
đều chủ yếu liên quan đến việc giao hàng và trả tiền hàng. Để xác định một 
hợp đồng mua bán là hợp đồng mua bán quốc tế, các luật gia thường dựa trên 
một số tiêu chí như sau: 
Thứ nhất: Hợp đồng mua bán có tính quốc tế nếu trụ sở kinh doanh của 
bên mua và bên bán được đăng ký tại hai quốc gia khác nhau. 
Thứ hai: Hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế nếu đối tượng của hợp 
đồng là hàng hoá phải được giao tại một nước khác với nước mà hàng hoá đó 
được tồn trữ hoặc sản xuất ra khi hợp đồng được ký kết. 
Thứ ba: Được coi là hợp đồng mua bán quốc tế khi: 
+ Có sự vận chuyển hàng hoá là đối tượng của hợp đồng từ lãnh thổ của 
quốc gia này sang lãnh thổ của quốc gia khác. 
+ Tất cả các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ưng thuận không 
được thực hiện trên lãnh thổ của cùng một quốc gia. 
+ Sự giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với 
quốc gia mà ở đó các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ưng thuận đã 
được hoàn thành. Quan điểm trên đã được đề nghị trong dự thảo luật ROMA 
1956. 
Công ước Vienne ngày 11/04/1980 đã không chấp nhận quan điểm trong 
dự thảo luật Roma và chấp thuận tiêu chuẩn thứ nhất: Hợp đồng mua bán có 
tính chất quốc tế khi hai bên có trụ sở tại hai quốc gia khác nhau. Dấu hiệu 
quốc tịch của các bên không phải là yếu tố để phân biệt. 
2. Vai trò của hợp đồng mua bán ngoại thương trong hoạt động 
kinh doanh XNK. 
8 
Do đặc điểm về tự nhiên mỗi quốc gia có lợi thế riêng về sản xuất. 
Chính những lợi thế riêng biệt khác nhau này giữa các quốc gia là tiền đề dẫn 
tới phân công lao động quốc tế và dẫn đến nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các 
quốc gia nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. 
Thực tiễn đã chứng minh trong thời đại ngày nay khi trình độ quốc tế 
hoá đời sống kinh tế ngày càng cao, nhu cầu hội nhập quốc tế là nhu cầu 
không thể thiếu và ngày càng phải được mở rộng. Các quốc gia sẽ không thể 
phát triển, không thể theo kịp sự phát triển của thế giới và sẽ bị tụt hậu nếu 
thực hiện chính sách cô lập. Các quốc gia đều có ý thức được giá trị to lớn 
của việc hội nhập kinh tế toàn cầu đặc biệt là các quan hệ trao đổi hàng hoá 
quốc tế đang ngày càng được phát triển sâu rộng hơn. 
Để quan hệ trao đổi mua bán hàng hoá được diễn ra bình thường ổn định 
và bảo vệ được quyền lợi của các bên đòi hỏi phải có một cơ sở pháp lý nhất 
định, trong đó có các bên xác lập các quyền và nghĩa vụ đối với nhau đồng 
thời cũng là cơ sở để các nước hữu quan thực hiện (nhiệm vụ) quyền quản lý 
nhà nước đối với hoạt động XNK hàng hoá. 
Hợp đồng ngoại thương có vai trò vô cùng to lớn đối với hoạt động trao 
đổi hàng hoá. Cụ thể như sau: 
- Hợp đồng ngoại thương là cơ sở pháp lý quy định quyền và nhiệm vụ 
của các bên trong quan hệ trao đổi hàng hoá. 
- Hợp đồng ngoại thương là căn cứ để bảo vệ các nguồn và lợi ích hợp 
pháp của các bên khi có tranh chấp xảy ra. 
- Hợp đồng ngoại thương là công cụ pháp lý trung tâm của hoạt động 
kinh doanh XNK đồng thời là coư sở để các bên ký kết các hợp đồng khác. 
Hợp đồng vận chuyển, hợp đồng Bảo hiểm, hợp đồng bảo lãnh… 
- Hợp đồng ngoại thương là cơ sở quan trọng của cơ quan nhà nước: Hải 
quan, cơ quan thuế… thực hiện các chức năng quản lý nhà nước trong các 
lĩnh vực liên quan. 
9 
Phần Hai 
HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG - 
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN 
I. SỰ HÌNH THÀNH QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN 
QUỐC TẾ. 
Mua bán quốc tế là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời. Tới đầu thế kỷ 
XIX các hợp đồng mua bán quốc tế vẫn được thiết lập theo các quy tắc 
pháp lý được quy định trong các bộ luật dân sự của các quốc gia do vậy khi 
quy chiếu vào đó các thương gia thường lo sợ rằng hợp đồng của họ sẽ bị các 
toà án coi rằng trái với trật tự xã hội. 
Năm 1817 trên thế giới đã có sự xuất hiện những dấu hiệu của cuộc 
khủng hoảng kinh tế, hàng hoá sản xuất ra dư thưa. Sự cạnh tranh về thị 
trường ngày càng gay gắt. 
Để khắc phục tình trạng này các thương gia đã có sự quy tụ theo ngành 
nghề dưới dạng các hiệp hội với mục đích: 
- Thiết lập một quy chế pháp lý chi phối các hoạt động mua bán quốc tế 
nhằm thống nhất các điều kiện mua bán thiết lập môi trường cạnh tranh công 
bằng, hợp lý. 
- Tước bỏ thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp của các toà án quốc 
gia và chuyên quyền này vào tổ chức trọng tài quốc tế. 
Trong giai đoạn đầu các hiệp hội, các nhà kinh doanh tại mỗi quốc đã 
soạn ra những hợp đồng mẫu cho từng loại hàng hoá tuy nhiên các hợp đồng 
này vẫn mang tính chất riêng biệt do vậy hợp đồng mẫu của từng quốc gia 
vẫn có sự khác biệt về chi tiết nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến các vụ 
tranh chấp. Do đó những hiệp hội của các quốc gia đã tìm cách xích lại gần 
nhau hơn và ký kết với nhau những thoả hiệp, trong đó quyền lợi của các bên 
được giải quyết thoả đáng. Các nỗ lực quốc tế nhằm đem lại một chế độ pháp 
lý thuần nhất phải kể đến các công trình. 
10 
1. Uỷ ban kinh tế Châu âu thuộc tổ chức của Liên hợp quốc đã soạn thảo 
được những điều kiện chung cho các hợp đồng XNK một số mặt hàng trọng 
điểm: các trang thiết bị, ngũ cốc, chất đốt. 
2. Hội đồng tương trợ kinh tế - tổ chức thuộc khối các nước XHCN với 
mục đích phát triển nền ngoại thương giữa các nước đó trên tinh thần tương 
trợ đã soạn ra các văn bản. 
- Các điều kiện chung về quan hệ thương mại. 
- Các quy tắc pháp lý áp dụng cho hợp đồng mua bán. 
- Cách giải quyết các vụ tranh chấp. 
Tổ chức này đã ngừng hoạt động từ tháng 6/1999. 
3. Phòng Thương mại quốc tế với công trình về "những điều kiện 
thương mại quốc tế giải thích các từ ngữ thương mại năm 1930 và được sửa 
đổi vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990 và năm 2000. 
4. Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế - 
công ước Vienne năm 1980 và có hiệu lực từ tháng 1/1988. 
II. KHÁI NIỆM - ĐẶC ĐIỂM CỦA HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG. 
1. Khái niệm: 
Quan hệ trao đổi hàng hoá quốc tế ngày càng được phát triển cả về chiều 
sâu và chiều rộng. Hoạt động mua bán hàng hoá nói chung và hoạt động mua 
bán quốc tế nói riêng là một lĩnh vực vô cùng phức tạp đòi hỏi phải có cơ sở 
pháp lý nhất định thể hiện dưới một hình thức nhất định - đó là hợp đồng. 
Hợp đồng mua bán ngoại thương trước hết là một hợp đồng mua bán 
hàng hoá do đó nó có đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng mua bán thông 
thường. Điểm khác biệt của hợp đồng mua bán ngoại thương là yếu tố nước 
ngoài có trong hợp đồng bao gồm: 
- Chủ thể của hợp đồng 
- Đối tượng của hợp đồng 
- Đồng tiền thanh toán. 
11 
Theo luật thương mại Việt Nam 1997 tại điều 8 đưa ra khái niệm khái 
quát về hợp đồng ngoại thương như sau: "Hợp đồng mua bán ngoại thương là 
hợp đồng mua bán được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với 
một bên là thương nhân nước ngoài. 
Theo công đốc LaHay 1964 về mua bán quốc tế, đối với các động sản 
hữu hình thì một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán ngoại thương. Nếu 
các bên chủ thể của hợp đồng mua bán có trụ sở Thương mại tại các nước 
khác nhau, hàng hoá trong hợp đồng được chuyển qua biên giới và được xác 
lập ở các nước khác nhau. 
Công ước Vienne 1980 của Liên hợp quốc thì yếu tố nước ngoài của 
hợp đồng là yếu tố về chủ thể. 
Như vậy về mặt bản chất thì khái niệm hợp đồng ngoại thương trong 
công ước của Liên hợp quốc 1980 với khái niệm trong luật thương mại Việt 
Nam 1997 có sự tương đồng. 
Theo quy định tại nghị định 36CP 24/04/97 các hợp đồng trao đổi hàng 
hoá giữa các doanh nghiệp thuộc khi chế xuất, các cơ sở kinh doanh hàng 
miễn thuế với các doanh nghiệp trong nước tuy không được gọi là hợp đồng 
mua bán ngoại thương nhưng được coi là hợp đồng XNK và chịu sự chi phối 
của các quy định pháp luật liên quan. 
Ngoài ra, thực tiễn cho thấy các hình thức kinh doanh khác như chuyển 
khẩu, tạm nhập tái xuất… các hợp đồng các hình thức này cũng phải chịu sự 
điều chỉnh của các quy định páp luật về hợp đồng ngoại thương. 
2. Đặc điểm hợp đồng ngoại thương. 
- Về chủ thể: 
Chủ thể tham gia hợp đồng là những thương nhân mang quốc tịch khác 
nhau, quy chế thương nhân được xác định theo luật của nước mà thương 
nhân đó mang quốc tịch. 
Thương nhân là tổ chức thì quốc tịch của thương nhân được xác định là 
quốc tịch của nước nơi: 
+ Đặt trung tâm quản lý (Pháp - Đức) 
12 
+ Đặt trung tâm hoạt động của tổ chức (Ai Cập, Xê ri…) 
Khoản 1 điều 832 Bộ luật dân sự nước cộng hoà XHCN Việt Nam ghi 
nhận nguyên tắc quốc tịch của pháp nhân được xác định tuỳ thuộc vào nơi 
thành lập pháp nhân. 
- Về đối tượng của hợp đồng: 
Là hàng hoá tồn tại thực tế, có thể di rời được, xác định được phải được 
phép giao dịch lưu thông trên thị trường. 
- Về đồng tiền thanh toán 
Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng ngoại thương là ngoại tệ đối với ít 
nhất là một bên tham gia hợp đồng. Các bên có thể thoả thuận đồng tiền 
thanh toán là đồng tiền của bên bán hoặc bên mua hoặc của một nước thứ ba 
bất kỳ. 
- Về pháp luật áp dụng 
Nguồn luật áp dụng điều chỉnh các quan hệ hợp đồng mua bán ngoại 
thương phức tạp hơn rất nhiều so với các hợp đồng mua bán trong nước bao 
gồm điều ước quốc tế, luật quốc gia và tập quán Thương mại quốc tế. 
III. SỰ ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN 
NGOẠI THƯƠNG. 
Các quan hệ trao đổi hàng hoá quốc tế chịu ảnh hưởng trực tiếp của các 
quan hệ chính trị giữa các quốc gia. 
Các nhà nước thường sử dụng những công cụ nhằm điều tiết các quan 
hệ thương mại phù hợp với mục tiêu chính trị kinh tế của nước mình, do vậy 
đằng sau các giao dịch thương mại quốc tế thường tiềm ẩn những mục đích 
chính trị. 
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật các tập đoàn công 
nghiệp tài chính từ các nước phát triển đã tạo ra một sức ép mạnh mẽ đối với 
việc phát triển thị trường của