Laser được phỏng theo maser, một thiết bị có cơ chế tương tự nhưng tạo ra tia vi sóng 
hơn là các bức xạ ánh sáng. Maser đầu tiên được tạo ra bởi Charles H. Townes và sinh 
viên tốt nghiệp J.P. Gordon và H.J. Zeiger vào năm 1953. Maser đầu tiên đókhông tạo ra 
tia sóng m ột cách liên tục. Nikolay Gennadiyevich Basov và Aleksandr Mikhailovich 
Prokhorov của Liên bang Xô viết đã làm việc độc lập trên lĩnh vực lượng tử dao động và 
tạo ra hệ thống phóng tia liên tục bằng cách dùng nhiều hơn 2 mức năng lượng. Hệ thống 
đó có thể phóng ra tia liên tục mà không cho các hạt xuống mức năng lượng bình thường, 
vì thế vẫn giữ tần suất. Năm 1964, Charles Townes, Nikolai Basov và Aleksandr 
Prokhorov cùng nhận giải thưởng Nobel vật lý về nền tảng cho lĩnh vực điện tửlượng tử, 
dẫn đến việc tạo ra máy dao động và phóng đại dựa trên thuyết maser-laser.
Laser hồng ngọc, một laser chất rắn, được tạo ra lần đầu tiên vào năm 1960, bởi nhà vật 
lý Theodore Maiman tại phòng thí nghiệm Hughes Laboratory ở Malibu, California. 
Hồng ngọc là ôxít nhôm pha lẫn crôm. Crôm hấp thụ tia sáng màu xanh lá cây và xanh 
lục, để lại duy nhất tia sáng màu hồng phát ra.
Robert N. Hall phát triển laser bán dẫn đầu tiên, hay laser diod, năm 1962. Thiết bị của 
Hall xây dựng trên hệ thống vật liệu gali-aseni và tạo ra tia có bước sóng 850 nanômét, 
gần vùng quang phổ tia hồng ngoại. Laser bán dẫn đầu tiên với tia phát ra có thể thấy 
được được trưng bày đầu tiên cùng năm đó. Năm 1970, Zhores Ivanovich Alferov của 
Liên Xô và Hayashi và Panish của Phòng thí nghiệm Bell đã độc lập phát triển laser 
diode hoạt động liên tục ở nhiệt độ trong phòng, sử dụng cấu trúc đa kết nối.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2575 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lazer - nguyên lý và ứng dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 
TIỂU LUÂN 
LAZER- NGUYÊN LÝ VÀ ỨNG DỤNG 
Họ và tên: Lương Thị Hà 
 Khoa: Vật lí 
 Lớp : Ak59 
 MSSV : 595103019 
Hà Nội 2011 
I.Lịch sử 
Laser được phỏng theo maser, một thiết bị có cơ chế tương tự nhưng tạo ra tia vi sóng 
hơn là các bức xạ ánh sáng. Maser đầu tiên được tạo ra bởi Charles H. Townes và sinh 
viên tốt nghiệp J.P. Gordon và H.J. Zeiger vào năm 1953. Maser đầu tiên đó không tạo ra 
tia sóng một cách liên tục. Nikolay Gennadiyevich Basov và Aleksandr Mikhailovich 
Prokhorov của Liên bang Xô viết đã làm việc độc lập trên lĩnh vực lượng tử dao động và 
tạo ra hệ thống phóng tia liên tục bằng cách dùng nhiều hơn 2 mức năng lượng. Hệ thống 
đó có thể phóng ra tia liên tục mà không cho các hạt xuống mức năng lượng bình thường, 
vì thế vẫn giữ tần suất. Năm 1964, Charles Townes, Nikolai Basov và Aleksandr 
Prokhorov cùng nhận giải thưởng Nobel vật lý về nền tảng cho lĩnh vực điện tử lượng tử, 
dẫn đến việc tạo ra máy dao động và phóng đại dựa trên thuyết maser-laser. 
Laser hồng ngọc, một laser chất rắn, được tạo ra lần đầu tiên vào năm 1960, bởi nhà vật 
lý Theodore Maiman tại phòng thí nghiệm Hughes Laboratory ở Malibu, California. 
Hồng ngọc là ôxít nhôm pha lẫn crôm. Crôm hấp thụ tia sáng màu xanh lá cây và xanh 
lục, để lại duy nhất tia sáng màu hồng phát ra. 
Robert N. Hall phát triển laser bán dẫn đầu tiên, hay laser diod, năm 1962. Thiết bị của 
Hall xây dựng trên hệ thống vật liệu gali-aseni và tạo ra tia có bước sóng 850 nanômét, 
gần vùng quang phổ tia hồng ngoại. Laser bán dẫn đầu tiên với tia phát ra có thể thấy 
được được trưng bày đầu tiên cùng năm đó. Năm 1970, Zhores Ivanovich Alferov của 
Liên Xô và Hayashi và Panish của Phòng thí nghiệm Bell đã độc lập phát triển laser 
diode hoạt động liên tục ở nhiệt độ trong phòng, sử dụng cấu trúc đa kết nối. 
II. Khái niệm về lazer 
Laser là tên của những chữ cái đầu của thuật ngữ bằng tiếng Anh “Light Amplification 
by Stimulated Emission of Radiation ’’ (Sự khuếch đại ánh sáng bằng bức xạ kích hoạt). 
Laser là nguồn ánh sáng nhân tạo thu được nhờ sự khuếch đại ánh sáng bằng bức xạ phát 
ra khi kích hoạt cao độ các phần tử của một môi trường vật chất tương ứng. Laser là ánh 
sáng có nhiều tính chất đặc biệt hơn hẳn ánh sáng tự nhiên hay nhân tạo khác và có 
những công dụng rất hữu ích có thể áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật và 
đời sống, tạo nên cả một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật sau khi nó ra đời. 
Sự ra đời cùa Laser bắt nguồn từ Thuyết Lượng tử do nhà bác học A. Einstein phát minh 
ra năm 1916. Đến năm 1954, các nhà bác học Anh, Mỹ đã đồng thời sáng chế ra máy 
phát tia laser ứng dụng vào thực tế. Các thử nghiệm laser trên người bắt đầu từ những 
năm 1960. Từ năm1964, đã bắt đầu ứng dụng laser trong các trị liệu về Da (chuyên khoa 
da liễu). 
1. Nguyên lý phát sinh LASER: 
Theo những khái niệm cơ bản của vật lý lượng tử, khi ta chiếu một chùm ánh sáng vào 
một môi trường vật chất (thuật ngữ vật lý học gọi là hệ vật lý tượng tử) thì chùm ánh sáng 
sẽ yếu dần đi do bị hấp thu bởi môi trường vật chất. Bản chất quá trình bị hấp thu ấy là 
các hạt ánh sáng (photon) đã truyền năng lượng kích hoạt các phân tử vật chất “nhảy” từ 
trạng thái ổn định A lên một trạng thái B với mức năng lượng cao hơn. Vì B là một trạng 
thái không ổn định, nên sau một thời gian nhất định, các phân tử đang ở mức B lại “nhảy” 
về mức A và trong lúc “nhảy về” đó nó cũng phát ra một photon mang năng lượng bằng 
năng lượng nó đã hấp thu, theo kiểu “vay gì trả nấy”. Đó là hiện tượng bức xạ. Tuy nhiên 
các hạt photon bức xạ này không nhiều, vì nó tỉ lệ với số phân tử có ở mức B, mà số phân 
tử ở trang thái B bao giờ cũng ít hơn số phân tử ở trạng thái ổn định A. Các photon bức 
xạ này phát ra theo mọi hướng một cách tự do nên còn gọi nó là bức xạ tự do. 
Khi ta làm cho các photon tương tác bởi các phân tử ở mức cao B, bắt nó trở về A sớm 
hơn và phát sinh ra photon, các photon có đồng mức năng lượng và đúng bằng mức năng 
lượng các photon của nguồn chiếu đã truyền cho nó thì đó là bức xạ kích hoạt. 
Khi tạo ra bức xạ kích hoạt ở mức độ cao cho các photon bức xạ phát ra liên tục ở mức 
cao nhất, rồi được chọn lọc và khuyếch đại để chúng phát về cùng một hướng với những 
tính chất giống nhau ta sẽ thu được chùm sáng laser. Như vậy nguyên lý của máy phát 
laser chính là làm sao cho nguồn sáng chiếu vào môi trường hoạt chất laser không bị yếu 
đi để có thể kích hoạt liên tục các phần tử vật chất cho số phân tử ở mức B luôn nhiều 
hơn ở mức A, như vậy số photon bức xạ sẽ được phát sinh nhiều đến mức tối đa. Khi đó, 
bằng các thiết bị đặc biệt, nguồn sáng bức xạ này sẽ được chọn lọc và khuyếnh đại để 
phát ra một chùm ánh sáng đơn sắc, gồm những tia sáng có cùng hướng, có bước sóng 
gần tương đương và có độ tập trung cao. Đó chính là laser. 
2. Cấu tạo máy phát laser, bao gồm các bộ phận chính: 
- Hoạt chất laser: Là môi trường chứa các hoạt chất có khả năng phát ra bức xạ laser khi 
được kích hoạt bằng một nguồn năng lượng. 
- Nguồn nuôi: Là nguồn năng lượng để duy trì hoạt động của môi trường hoạt chất laser, 
giữ cho hoạt chất luôn luôn ở trạng thái có số phần tử ởø mức B nhiều hơn ở mức A. 
- Buồng cộng hưởng: Bao gồm 1 gương phản xạ toàn phần và 1 gương bán mờ 
(độ phản xạ từ 70% đến 99%) 
Buồng cộng hưởng cho phép nguồn sáng kích thích chất nhiều lần và chùm tia sáng bức 
xạ sẽ được khuyếch đại và chọn lọc qua gương phản xạ toàn phần và gương mờ cho đến 
khi ổn định để phát ra chùm sáng laser. 
 Cấu tạo cơ bản và cơ chế hoạt động của laser. 
1) Buồng cộng hưởng (vùng bị kích thích) 
2) Nguồn nuôi (năng lượng bơm vào vùng bị kích thích) 
3) gương phản xạ toàn phần 
4) gương bán mạ 
5) tia laser 
III. Cơ chế 
Một ví dụ về cơ chế hoạt động của laser có thể được miêu tả cho laser thạch anh. 
 Dưới sự tác động của hiệu điện thế cao, các electron của thạch anh di chuyển từ 
mức năng lượng thấp lên mức năng lương cao tạo nên trạng thái đảo nghịch mật 
độ của electron. 
 Ở mức năng lượng cao, một số electron sẽ rơi ngẫu nhiên xuống mức năng lượng 
thấp, giải phóng hạt ánh sáng được gọi là photon. 
 Các hạt photon này sẽ toả ra nhiều hướng khác nhau từ một nguyên tử, va phải 
các nguyên tử khác, kích thích eletron ở các nguyên tử này rơi xuống tiếp, sinh 
thêm các photon cùng tần số, cùng pha và cùng hướng bay, tạo nên một phản ứng 
dây chuyền khuyếch đại dòng ánh sáng. 
 Các hạt photon bị phản xạ qua lại nhiều lần trong vật liệu, nhờ các gương để tăng 
hiệu suất khuếch đại ánh sáng. 
 Một số photon ra ngoài nhờ có gương bán mạ tại một đầu của vật liệu. Tia sáng đi 
ra chính là tia laser. 
IV. Phân loại laser: 
Tùy theo loại hoạt chất laser ta sẽ thu được các tia laser với tên gọi khác nhau: 
Laser chất rắn 
Có khoảng 200 chất rắn có khả năng dùng làm môi trường hoạt chất laser. Một số loại 
laser chất rắn thông dụng: 
 YAG-Neodym: hoạt chất là Yttrium Aluminium Garnet (YAG) cộng thêm 2-5% 
Neodym, có bước sóng 1060nm thuộc phổ hồng ngoại gần. Có thể phát liên tục 
tới 100W hoặc phát xung với tần số 1000-10000Hz. 
 Hồng ngọc (Rubi): hoạt chất là tinh thể Alluminium có gắn những ion chrom, có 
bước sóng 694,3nm thuộc vùng đỏ của ánh sáng trắng. 
 Bán dẫn: loại thông dụng nhất là diot Gallium Arsen có bước sóng 890nm thuộc 
phổ hồng ngoại gần. 
Laser chất khí 
 He-Ne: hoạt chất là khí Heli và Neon, có bước sóng 632,8nm thuộc phổ ánh sáng 
đỏ trong vùng nhìn thấy, công suất nhỏ từ một đến vài chục mW. 
 Argon: hoạt chất là khí argon, bước sóng 488 và 514,5nm. 
 CO2: bước sóng 10.600nm thuộc phổ hồng ngoại xa, công suất phát xạ có thể tới 
megawatt (MW). Trong y học ứng dụng làm dao mổ. 
LASER chất lỏng 
Môi trường hoạt chất là chất lỏng, thông dụng nhất là laser màu. 
V. Các tính chất của tia Laser : 
- Độ đơn sắc cao 
Laser là chùm ánh sáng mà các tia sáng của nó có mức chênh lệch bước sóng nhỏ nhất, so 
với các chùm sáng đơn sắc khác. Sự chênh lệch bước sóng này còn gọi là phổ ánh sáng 
của chùm ánh sáng. 
Và dĩ nhiên là phổ càng hẹp thì độ đơn sắc của chùm sáng càng cao. Trước khi có laser 
các nhà vật lý đã tạo được các chùm ánh sáng đơn sắc có chênh lệch bước sóng từ 1Ao 
đến 10nm, nhưng để sử dụng trong nghiên cứu khoa học. Trong khi đó mức chênh lệch 
bước sóng của chùm ánh sáng laser có thể tới 0,1 Ao. 
Tính chất này rất quan trọng vì hiệu quả tác dụng của laser khi tương tác với vật chất, 
với các tổ chức sinh học phụ thuộc vào độ đơn sắc này. 
- Độ định hướng cao 
Khác với các nguồn sáng khác, các tia sáng Laser được chọn lọc chỉ phát ra những tia 
vuông góc với gương, nên hầu như song song với nhau (hay nói theo ngôn ngữ vật lý là 
góc mở giữa các tia là rất nhỏ). Nhờ vậy, laser có độ định hướng lý tưởng, có thể chiếu đi 
rất xa, đến mức người ta có thể dùng laser để đo những khoảng cách trong vũ trụ. 
- Mật độ phổ (độ chói) rất cao 
Độ chói của nguồn sáng được tính bằng cách chia công suất của chùm sáng cho độ rộng 
của phổ. 
Vì độ rộng của phổ Laser rất nhỏ nên laser có độ tập trung các tia sáng rất cao, hay nói 
cách khác là độ chói rất cao so với các nguồi sáng khác. 
Ví dụ: laser có công suất thấp là laser He-Ne cũng có độ chói gấp hàng vạn lần độ chói 
của ánh sáng mặt trời. Những laser có công suất lớn có độ chói cao gấp hàng triệu lần 
mặt trời. 
- Công suất của laser 
Tùy loại laser mà có nguồi sáng công suất khác nhau. Có những loại laser công suất 
mạnh tương đương công suất 1 vạn nhà máy điện 1 triệu KW. Nhựng nguồn laser công 
suất mạnh có thể sử dụng trong công nghiệp nạêng như khoan cắt vật liệu, hay chế tạo 
các loại vũ khí, khí tài quân sự. 
Các loại laser sử dụng trong y học là những laser có công suất thấp như laser He – Ne 
công suất chỉ khoảng từ 2MW đến 10MW. 
5. Những công dụng của laser: 
Ngày nay, người ta đã chế tạo ra được gần 500 loại laser khác nhau, ứng dụng trong rất 
nhiều lĩnh vực: 
- Đo đạc những khoảng cách cực lớn, như trong nghành thiên văn (đo khoảng cach từ trái 
đất đến các hành tinh và khoảng cách giữa các hành tinh trong vũ trụ). 
- Thiết lập dẫn đường như các loại bom, tên lửa được dẫn đường bằng laser. 
- Thông tin liên lạc 
- Công nghiệp nặng: hàn cắt kim loại 
- Công nghiệp chế tạo vũ khí. 
- Cải tạo giống 
- Trong y học (chuẩn đoán và điều trị bệnh, săn sóc thẩm mỹ) 
VI : Các ứng dụng của tia lazer 
1. Ứng dụng của laser trong nghiên cứu khoa học: 
 a. Nghiên cứu về Quang học phi tuyến: 
 Như chúng ta đã biết trong quang học cổ điển các nguồn sáng phát sóng là những 
nguồn không kết hợp và có cường độ nhỏ. Khi tương tác của ánh sáng với các môi trường 
vật chất, độ phân cực của môi trường chỉ là hàm tuyến tính của cường độ điện trường của 
sóng tới. 
P = E 
ở đây, P là độ phân cực của môi trường. 
 là độ cảm điện của môi trường. 
E là cường độ điện trường 
Khi cường độ sóng lớn như cỡ bức xạ laser thì ta có thể biểu diễn lại độ phân cực như 
sau: 
P = ...3
3
2
21
EEE   
Khi E càng lớn thì số hạng bậc cao của E càng trở nên có tác dụng lớn và chúng dẫn đến 
những hiệu ứng mới trước đây không quan sát được, đó là các hiệu ứng quang phi tuyến. 
Ngày nay người ta đã nghiên cứu kĩ lưỡng cả trên phương diện lí thuyết lẫn thực nghiệm 
về các hiệu ứng quang phi tuyến, mở ra một ngành khoa học mới là ngành Quang học phi 
tuyến với nhiều hướng nghiên cứu khác nhau và ứng dụng khác nhau ở lĩnh vực này. 
 b. Holography: 
 Holography là tên thường gọi của chụp ảnh khối. Nguyên lí của holography được đề 
xuất năm 1948 nhưng do nguồn sáng để chụp không đủ mạnh nên không thu được kết 
quả. Chỉ từ khi có laser, người ta đã sử dụng nguồn sáng này để thu được ảnh khối của 
vật và nghiên cứu về holography được phát triển rất nhanh và trở thành một ngành khoa 
học riêng trong vật lí và quang học kĩ thuật. 
+ Holography là một phương pháp ghi hình như phương pháp chụp ảnh nhờ máy ảnh. 
Tuy nhiên nó có những ưu điểm nổi bật hơn phương pháp chụp ảnh thông thường. 
- Phương pháp này chụp ảnh không cần thấu kính. 
- Nó cho hình ảnh khối của vật, nghĩa là cho hình ảnh 3 chiều. 
- Holography ghi lại các sóng tán xạ từ vật bao gồm cả biên 
độ và pha của sóng và ở bất cứ điểm nào của Holography cũng có các tín hiệu từ toàn 
vật chụp . Do vậy, nếu như ta bẻ gãy Holography tanh nhiều phần thì mỗi mảnh nhỏ 
đó cũng vẫn có đủ những thông tin của sóng tán xạ từ vật và cho ta hình ảnh cả vật 
khi phục hồi. Đây là một đặc tính quan trọng của Holography để có thể có được nhiều 
bản sao chép của vật , dễ bảo quản và nhân lên. 
- Do holography có hình khối nên nó có thể ghi lại tín hiệu từ các vật khác nhau 
trên các vùng khác nhau, nghĩa là có thể cùng một lúc giữ lại nhiều thông tin. 
+ Với những ưu điểm như vừa nêu trên thì hiện tại người ta đang và sẽ mở ra nhiều 
ứng dụng thú vị và quan trọng như sau: 
- Nếu người ta ghi lại một lượng thông tin lớn ở một yếu tố thể tích của holography 
thì nó có thể trở thành bộ nhớ tốt nhất cho máy tính. Vì nó được ghi lại và phục 
hồi bằng ánh sáng nên dẫn tới việc xây dựng các máy tính điện tử quang học. Đối 
với loại máy tính này thì tốc độ xử lý thông tin nhanh gấp nhiều lần máy tính hiện 
có do trong máy tính quang học tốc độ lan truyền tín hiệu là vận tốc ánh sáng 
trong môi trường. 
- Khi sử dụng các loại ánh sáng khác nhau để ghi lại Holoraphy thì khi phục hồi 
bằng ánh sáng trắng ta có thể thấy được hình ảnh màu của vật. Đay chính là 
nguyên tắc chụp ảnh màu và video màu. Và trong tương lai thì kỹ thuật chụp ảnh, 
truyền hình nổi và màu rất có triển vọng. 
- Vì holography cho ta hình ảnh khối vật nên người ta có thể sả dụng mẫu để kiểm 
tra sản phẩm như lốp ô tô khi so sánh với một lốp chuẩn xem có sai hỏng gì 
không…. 
- Nhờ phương pháp này người ta dễ dàng ghi lại hình ảnh khối của các sinh vật 
nhỏ khi chúng đang chuyển động hoặc ngay cả tên lửa, máy bay khi chúng đang 
chuyển động để có thể nghiên cứu sự thay đổi theo thời gian của các vât trên theo 
những mục đích nghiên cứu khác nhau. 
 c. Nghiên cứu plasma nóng và các phản ứng nhiệt hạch: 
 Do tia laser có tính chất là công suất cao, ở chế độ phát xung có thể đạt được công 
suất cỡ 1012 – 1015 W nên khi bắn tia laser vào vật chất có thể tạo ra được plasma ở nhiệt 
độ cao. Và ở nhiệt độ cao này sẽ có các phản ứng nhiệt hạch, từ đây mở ra khả năng 
nghiên cứu phản ứng nhiệt hạch có điều khiển được trong phòng thí nghiệm. 
d. Nghiên cứu sinh hóa hiện đại: 
 Trong các phản ứng hóa học khi có dự tham gia của nhiều đồng vị hóa học thường 
gặp khó khăn khi ta muốn loại trừ ảnh hưởng của đồng vị nào đó trong liên kết. Tuy 
nhiên, do các đồng vị có năng lượng liên kết hóa học sai khác nhau ít nên chỉ có nhờ tia 
laser có độ đơn sắc cao mới dễ dàng phá hủy liên kết nào đó khi có sự tương tác cộng 
hưởng. Năng lượng bức xạ laser hf sẽ phá hủy chỉ liên kết nào tương ứng với năng lượng 
này mà không ảnh hưởng đến các loại dao động với tần số f1, f2, f3,…khác rất ít f. Người 
ta nói rằng đay chính là sự phá hủy hay kích thích chọn lọc phản ứng hóa học. Chính điều 
này mở ra khả năng nghiên cứu các sản phẩm trung gian của hóa học, nghiên cứu quá 
trình diễn biến theo thời gian của phản ứng, đây là điều mà khoa học đã mơ ước từ bấy 
lâu nay. Cũng chính nhờ có laser mà các nhà khoa học còn có thể nghiên cứu được phản 
ứng ở trạng thái kích thích. 
2. Ứng dụng của laser trong khoa học kĩ thuật: 
 Có thể nói đây là lĩnh vực rộng rãi của sự áp dụng laser và đang có nhiều kết quả lí thú. 
a. Trong thông tin liên lạc: 
 Vì laser có tính chất là độ đơn sắc cao và tính kết hợp cao nên laser được sử dụng 
rộng rãi và nhanh nhất trong ngành thông tin liên lạc. 
Sử dụng tia laser có những ưu điểm sau: 
So với sóng vô tuyến dải sóng truyền tin của tia laser lớn gấp bội ví dụ với sóng vô tuyến 
tần số sử dụng là 104 – 3.1011Hz nên dải sóng truyền tăng lên đến 5.104 lần. Do đó, các 
bức xạ laser nằm trong khoảng 0,4 – 0,8 m và với mỗi kênh truyền tin là 6,5 MHz thì 
sử dụng laser ta có thể có gần 80.105 kênh truyền cùng một lúc và gấp 105 lần kênh 
truyền khi sử dụng sóng cực ngắn. 
Ngoài ra, do tia laser có tính chất là mang năng lượng lớn nên nó có thể đi xa hơn các 
sóng vô tuyến. Do nếu sử dụng tia laser thì giảm được hang tỷ lần năng lượng cần dung. 
Vì vậy, tia laser được sử dụng trong truyền tin trong vũ trụ. 
 Và nếu sử dụng các bước sóng thích hợp có thể truyền tin ở các môi trường khác 
nhau như trong sương mù, ở dưới biển… 
b. Trong nghiên cứu vũ trụ: 
 Tia laser được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu vũ trụ, ví dụ như: 
- Tia laser được sử dụng để xác định vị trí các vật thể trong vũ trụ. 
- Theo dõi các tàu vũ trụ và liên lạc với chúng. 
- Điều khiển các tàu vũ trụ. 
3. Trong các ngành khoa học khác: 
a. Trong công nghệ gia công kim loại: 
 Dựa vào tính chất tia laser có cường độ lớn nên có thể khoan, hàn, cắt, gọt kim loại. 
Tia laser có đường kính nhỏ nên có thể thu được các lỗ khoan có đường kính cỡ bước 
sóng khoan được những kim loại cứng như bạch kim, hồng ngọc…Với các laser xung 
công suất lớn việc gia công kim loại đợc tiến hành nhanh và hiệu suất cao nên ngày nay 
nó được sử dụng rộng rãi trong các công đoạn khác nhau. 
b.Trong đo lường tiêu chuẩn: 
 Tia laser có độ ổn định về tần số đã trở thành thước đo chiều dài chuẩn. Các bức xạ 
của laser Cd để làm tần số chuẩn, bức xạ của laser He - Ne để đo tốc độ của ánh sáng… 
c. Trong khí tượng: 
 Dùng tia laser có thể đo được nồng độ các hạt hơi nước trong các đám mây để dự 
đoán thời tiết. Bằng cách thả các bóng thám không trước đây, việc xác định thời tiết 
thường lâu và tốn kém. 
 d.Ứng dụng của lazer trong y học 
Khi chiếu tia sáng laser vào một hệ sinh vật như cơ thể con người, sẽ có những hiệu ứng 
sinh học xảy ra trong cơ thể. Những hiệu ứng sinh học này là cơ sở để sử dụng laser trong 
y học phục vụ con người. 
Khi sử dụng laser để điều trị thì yếu tố quyết định hiệu quả là liều chiếu, bao gồm các 
tham số: 
- Công suất 
- Độ hội tụ (mật độ công suất ) 
- Thời gian chiếu 
- Số lần chiếu 
- Khoảng cach giữa các lần chiếu 
Bên cạnh đó đặc điểm của tổ chức cơ thể nơi chiếu cũng là yếu tố quan trọng góp phần 
tạo nên kết quả tốt trong điều trị. 
Các ứng dụng cơ bản của laser trong y học: 
1. Trong chuẩn đoán, có nhiều thiết bị chuẩn đoán sử dụng laser như : 
- Máy Dopler Laser thăm dò, đo dòng máu trong cơ thể. 
- Máy chụp cắt lớp laser. 
- Các máy dò tìm, đo đạc, dẫn đường trong chuẩn đoán. 
2. Trong điều trị: 
Ứng dụng của laser trong điều trị rất phong phú: 
- Da liễu: tẩy xóa các u, mụn, các đốm sắc tố như nốt ruồi tàn nhang, các bớt bẩm 
sinh vv… 
- Nhãn khoa: rất nhiều ứng dụng như điều trị hàn gắn các tổn thương võng mạc, 
điều trị các tổn thương giác mạc, trong các phẩu thuật sửa chữa các tật khúc xạ 
của mắt và phẩu thuật điều trị các bệnh lý khác của mắt. 
- Hệ thống tiêu hóa: tán sỏi ống mật chủ, trong các thủ thuật ngoại khoa điều trị các khối 
u đựng tiêu hóa, trong tạo hình thực quản, trong việc hàn gắn các tổn thương mạch máu 
nội tạng như trong các trường hợp ung thư, viêm loét đường tiêu hóa, v..v... 
- Sản phụ khoa: điều trị các tổn thương bệnh lý cổ tử cung để tránh nguy cơ ung thư hóa. 
- Tai – Mũi – Họng: điều trị các tổn thương của dây thanh êm, các bệnh lý và tổn thương 
vùng họng hầu. 
- Thần kinh: điều trị các tổn thương dạng u do hệ thống thần kinh. 
- Hô hấp: điều trị các khối u phổi, các tổn thương bệnh ly không phải do u, và hàn gắn cả 
các tổn thương khí quản do đặt ống nội khí quản khi gây mê hay do thủ thuật mở khí 
quản cấp cứu. 
- Tim mạch: phá hủy các mảng xơ vữa ở thành động mạch. 
A. Dao mổ laser: 
Người ta sử dụng các laser nhiệt để phẫu thuật như một dao mổ bằng tia sáng laser. Điển 
hình là dao mổ bằng laser CO2. Khi chiếu tia laser, tổ chức cơ thể nơi tia đi qua sẽ bay 
hơi rất nhanh tạo nên một đường cắt sắt như dao. Do tác dụng của nhiệt, hai bên đường 
cắt sẽ sẽ hình thành cột hàng rà