Có thể nói, “lý luận” và “thực tiễn” là hai phạm trù thường xuyên được đề
cập đến trong các hoạt động của con người. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan
hệ rất chặt chẽ với nhau và nó là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin nói chung và của lý luận nhận thức macxit nói riêng.
Trong bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào của con người thì những vấn đề về
lý luận và thực tiễn phải được đưa ra xem xét trong mối liên hệ với nhau. Có như
vậy hoạt động của con người mới có thể đi đúng hướng và đạt được hiệu quả cao.
Lịch sử phát triển đã chứng minh rằng phải luôn kết hợp giữa lý luận và thực tiễn
trong mọi hoạt động. Nếu có sự vi phạm nguyên tắc này thì kết quả thu được sẽ
không được như mong muốn.
Đối với Việt Nam, chúng ta đã từng đi qua những cuộc chiến tranh để bảo vệ
nền độc lập của đất nước.Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay
vào khôi phục nền kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình này,
chúng ta gặp vô vàn khó khăn những cũng có những điều kiện thuận lợi nhất định.
Trong từng giai đoạn phát triển, Đảng và Nhà nước có những đường lối chiến lược
phát triển đất nước khác nhau. Trải qua nhiều thay đổi về đường lối quản lý, hiện
nay nền kinh tế nước ta đã tìm được hướng đi đúng mặc dù vẫn còn không ít sai lầm
cần phải sửa đổi. Đạt được những thành tựu như vậy là do Đảng và Nhà nước ta đã
đi từ thực tiễn hoàn cảnh đất nước mà có được những lý luận đúng đắn để đưa ra
những chính sách kinh tế - xã hội phù hợp.
16 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2603 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LUẬN VĂN:
Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn trong sự nghiệp phát
triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam
Lời mở đầu
Có thể nói, “lý luận” và “thực tiễn” là hai phạm trù thường xuyên được đề
cập đến trong các hoạt động của con người. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan
hệ rất chặt chẽ với nhau và nó là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin nói chung và của lý luận nhận thức macxit nói riêng.
Trong bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào của con người thì những vấn đề về
lý luận và thực tiễn phải được đưa ra xem xét trong mối liên hệ với nhau. Có như
vậy hoạt động của con người mới có thể đi đúng hướng và đạt được hiệu quả cao.
Lịch sử phát triển đã chứng minh rằng phải luôn kết hợp giữa lý luận và thực tiễn
trong mọi hoạt động. Nếu có sự vi phạm nguyên tắc này thì kết quả thu được sẽ
không được như mong muốn.
Đối với Việt Nam, chúng ta đã từng đi qua những cuộc chiến tranh để bảo vệ
nền độc lập của đất nước.Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay
vào khôi phục nền kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình này,
chúng ta gặp vô vàn khó khăn những cũng có những điều kiện thuận lợi nhất định.
Trong từng giai đoạn phát triển, Đảng và Nhà nước có những đường lối chiến lược
phát triển đất nước khác nhau. Trải qua nhiều thay đổi về đường lối quản lý, hiện
nay nền kinh tế nước ta đã tìm được hướng đi đúng mặc dù vẫn còn không ít sai lầm
cần phải sửa đổi. Đạt được những thành tựu như vậy là do Đảng và Nhà nước ta đã
đi từ thực tiễn hoàn cảnh đất nước mà có được những lý luận đúng đắn để đưa ra
những chính sách kinh tế - xã hội phù hợp.
Với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, em đã chọn đề tài:
“Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp phát triển
kinh tế – xã hội ở Việt Nam”.
Chương 1. Cơ sở lý luận
1.1.Thực tiễn:
1.1.1.Khái niệm:
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử
- xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là quá trình con người sử dụng công cụ phương tiện vật
chất, sức mạnh vật chất tác động vào tự nhiên xã hội để cải tạo làm biến đổi cho phù
hợp với nhu cầu của mình. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể
và khách thể trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể trên cơ sở đó nhận
thức khách thể. Vì vậy thực tiễn là mắt khâu trung gian nối liền ý thức của con
người với thế giới bên ngoài.
Thực tiễn là hoạt động có tính chất loài (loài người). Hoạt động đó không thể
tiến hành chỉ bằng vài cá nhân riêng lẻ mà phải bằng hoạt động của đông đảo quần
chúng nhân dân trong xã hội. Đó là hoạt động của nhiều tầng lớp, nhiều giai cấp .
Chủ thể không phải là một vài cá nhân mà là cả xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất
định. Cho nên xét về nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính
lịch sử xã hội.
Thực tiễn là hoạt động vật chất gắn liền với sự biến đổi tiến bộ của tự nhiên
xã hội loài người nhằm cải tạo tự nhiên xã hội. Nhưng hoạt động vật chất nào đi
ngược lại với khoa học tự nhiên và xã hội thì không goị là hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn có ba dạng cơ bản:
- Hoạt động sản xuất vật chất: đây là hoạt động thực tiễn cơ bản và quan trọng nhất
vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
- Hoạt động chính trị – xã hội: nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ
xã hội, chế độ xã hội.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động nhằm rút ngắn độ dài của quá trình
con người nhận thức và biến đổi thế giới.
1.1.2.Vai trò:
Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở của nhận thức. Mọi nhận thức đều bắt nguồn
từ thực tiễn, tác động vào sự vật hiện tượng buộc nó bộc lộ thuộc tính trên cơ sở đó
khái quát, rút ra bản chất của sự vật hiện tượng, biến nó thành vật cho ta.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm nhận thức, thước đo để đánh giá
nhận thức. Thước đo không cố định, luôn luôn vận động, phát triển, nhưng vẫn đủ
để kiểm nghiệm nhận thức và lý luận, vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương
đối. Từ thực tiễn mà con người sáng tạo ra các phương pháp để cải tạo chính thực
tiễn
1.2.Lý luận:
1.2.1.Khái niệm:
Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh
mối liên hệ bản chất những quy luật của thế giới khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. Lý luận
được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng lý luận
không hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều
trực tiếp xuất phát kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi
trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên điều đó không làm mất đi mối liên hệ
giữa lý luận với kinh nghiệm. Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng
và khái quát cao nên nó đem lại những hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật
của các sự vật, hiện tượng khách quan. Như vậy lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc
hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là nó có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó
phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến, rộng rãi hơn nhiều so với tri thức kinh
nghiệm.
1.2.2.Vai trò:
Lý luận có các vai trò sau đây:
- Khái quát kinh nghiệm thực tiễn, tổng kết thực tiễn.
- Vạch ra những qui luật vận động phát triển của thực tiễn.
- Liên kết, tập hợp, giáo dục, thuyết phục, động viên, tổ chức thực hiện.
- Chỉ đạo và cải tạo cuộc sống.
1.3.Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Lý luận và thực tiễn thống nhất với nhau, không chia cắt, không tách rời,
không được coi trọng mặt nào. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài
thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn. Do đó, thực tiễn và lý luận luôn có mối
quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết
định lý luận
1.3.1.Thực tiễn quyết định lý luận:
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở động
lực mục đích chủ yếu và trực tiếp của lý luận. Triết học Mác – Lênin chỉ ra rằng
con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn.
Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới buộc con ngươì phải nhận
thức thế giới do đó mà lý luận của con người mới được hình thành và phát triển.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới buộc thế giới khách quan
phải bộc lộ những tính chất quy luật của nó trên cơ sở đó mà con người nhận thức
được chúng. Thực tiễn cung cấp những tài liệu cho lý luận. Do đó không có thực
tiễn thì không có lý luận và không có cả khoa học. Hiểu biết của con người xét đến
cùng phải bắt nguồn từ thực tiễn.
Quá trình biến đổi thế giới là quá trình con người ngày càng đi sâu vào nhận
thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới làm phong phú sâu sắc tri thức
của mình về thế giới. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và giới hạn phát triển của
lý luận và sự phát triển của các ngành khoa học. Nhu cầu của thực tiễn đòi hỏi phải
có tri thức mới. Tổng kết kinh nghiệm, khái quát nhận thức, thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của các ngành khoa học.
Thực tiễn còn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người. Nó là cơ
sở để chế tạo ra những dụng cụ máy móc hỗ trợ cho nhận thức của con người.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Triết học Mác – Lênin chỉ ra rằng từ hoat
động thực tiễn mà có tri thức và khoa hoc. Lý luận khoa học sau khi ra đời phải
quay về phục vụ thực tiễn hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, chỉ có ý nghĩa thực sự khi
chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ mục tiêu phát triển
chung.
Tóm lại sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiễn đối với lý luận đòi hỏi
phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu lý luận phải xuất phát
từ thực tiễn, dựa trên cơ sơ thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải
liên hệ với thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn thì sẽ dẫn tới sai lầm của bệnh chủ quan,
giáo điều, máy móc, quan liêu.
1.3.2.Sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn:
Triết học Mác - xít chỉ ra rằng coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ
lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận mà phải thấy được vai trò tác động tích cực của
lý luận đối với thực tiễn. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn được thể hiện ở các
điểm sau:
- Lý luận khái quát những kinh nghiệm thực tiễn. Do đó lý luận dẫn dắt, chỉ đạo
thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao. Lý luận khoa học làm cho
hoạt động của con người trở nên chủ động tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm tự
phát. Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết “không có lý luận thì lúng túng nhắm mắt mà
đi”. Còn Lênin khẳng định “ không có lý luận cách mạng thì không thể có phong
trào cách mạng”.
- Lý luận góp phần vào việc tổ chức giáo dục thuyết phục quần chúng. Lý luận một
khi đã thâm nhập vào quần chúng sẽ trở thành lực lượng vật chất.
- Lý luận có thể dự báo tương lai, từ đó hấp dẫn con người trong cuộc sống hiện tại.
Do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực nên lý
luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng. Khả năng ấy càng tăng lên
nếu lý luận đó lại bị chi phối bởi những tư tưởng không khoa học hoặc phản động.
Vì vậy, phải coi trọng lý luận, nhưng không được cường điệu hoá vài trò của lý luận
mà coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là
phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong lý luận khoa
học và hoạt động cách mạng. “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên
tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”
Tóm lại sự tác động trở lại của Nhận thức đối với thực tiễn theo hai hướng:
nếu nhận thức phù hợp với thực tiễn thì nó thúc đẩy thực tiễn phát triển, nếu nhận
thức phản ánh sai thực tiễn thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển thực tiễn.
Chương 2. mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp phát triển
kinh tế – xã hội ở việt nam
2.1.Thời kỳ trước đổi mới ( trước năm 1987)
Hợp tác xã hoá ở miền Bắc bắt đầu thực hiện từ năm 1958, đến năm 1960 cơ
bản hoàn thành. Khi đó chúng ta cho rằng làm ăn tập thể ưu việt hơn làm ăn cá thể,
kinh tế cá thể tự phát dẫn đến phân hóa giàu nghèo, phân chia giai cấp. Làm ăn tập
thể sẽ tạo ra sức mạnh, sẽ giải quyết được những vấn đề kinh tế xã hội của cộng
đồng nông thôn. Do vậy, hợp tác xã hoá được thực hiện đồng nhất với tập thể hoá,
xoá bỏ sản xuất theo hộ, chỉ cho phép tồn tại dưới hình thức kinh tế phụ gia đình,
mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về tập thể, tổ chức lao động tập trung dưới sự chỉ huy
điều hành của ban chủ nhiệm hợp tác xã và ban chỉ huy đội, phân phối theo ngày
công, sau khi trừ chi phí sản xuất, khấu trừ nộp cho nhà nước và phúc lợi xã hội ở
nông thôn, ban chủ nhiệm làm cả chức năng của chính quyền cơ sở. Tuy vậy nhờ
lao động tập thể và sử dụng tập trung các nguồn lực nên đã xây dựng được những
công trình thuỷ lợi, kiến thiết đồng ruộng, đường giao thông, trường học... bộ mặt
miền Bắc cũng có những thay đổi đáng kể.
Song tổ chức hợp tác xã ấy vốn chứa đựng những khuyết tật:
- Chế độ công hữu dưới hình thức tập thể dường như không có ai là chủ đích thực
dẫn đến tư liệu sản xuất không được sử dụng có hiệu quả và bị huỷ hoại.
- Quản lý lao động, sản xuất tập trung làm cho người lao động phụ thuộc, bị động,
thiếu chủ động, sáng tạo.
- Của cải làm ra dùng để bao cấp cho phúc lợi xã hội nông thôn, chi dùng phung
phí, phân chia cho người lao động quá ít, không khuyến kích người lao động hăng
say sản xuất.
- Các hợp tác xã lại tồn tại tương đối biệt lập với nhau, trao đổi sản phẩm lại gắn
liền với hệ thống quốc doanh mang tính giao nộp cấp phát, phi thị trường.
- Hệ thống quốc doanh ấy lại được tổ chức theo cấp hành chính. Mỗi xã, phường
còn có hợp tác xã mua bán tín dụng, nơi có nghề truyền thống còn có hợp tác xã tiểu
thủ công nghiệp.
Những khuyết tật trên của hợp tác xã nông nghiệp đã phát sinh những tiêu
cực ngay từ giai đoạn đầu. Nhưng chúng ta lại cho rằng những tiêu cực ấy là do chế
độ sở hữu tiên tiến, chỉ cần hoàn thiện chế độ quản lý thì sẽ phát huy tính ưu việt
của hợp tác xã, thậm chí có ý kiến cho rằng chúng ra đã có quan hệ sản xuất tiên
tiến cần phải kéo lực lượng sản xuất lên cho nó phù hợp. Điều này trái với qui luật
lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất của chủ nghĩa Mác.
Trên cơ lý luận đó, chúng ta mở cuộc vận động cải tiến vòng một, vòng hai,
vận động dân chủ áp dụng điều lệ mẫu vào các hợp tác xã. Các cuộc vận động ấy,
một mặt thực hiện khoán nhóm, ba khoán cho đội sản xuất, mặt khác lại mở rộng
quy mô hợp tác xã, hoàn thiện chế độ thống quản. Qua ba lần thực hiện cải tiến
quản lý, tuy có giảm mức độ nhất định những tiêu cực trong các hợp tác xã, nhưng
về cơ bản chưa khắc phục được.
Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước miền Bắc vừa là hậu phương lớn chi
viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, vừa trực tiếp đánh trả chiến tranh phá hoại của
giặc Mỹ. Do tác động của chiến tranh và có nguồn viện trợ không hoàn lại từ các
nước XHCN, các hợp tác xã lại có thêm sức mạnh tư tưởng, tâm lý và vật chất để
củng cố, những tiêu cực vốn có bên trong chưa bộc lộ ra. Mô hình tổ chức hợp tác
xã kiểu tập trung bao cấp tỏ ra có tác dụng tích cực. Bởi vì nó có thể huy động tối
đa sức người, sức của cho cuộc chiến đấu, “ thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người”, tất cả cho tiền tuyến, cho chiến thắng. Hợp tác xã còn hỗ trợ, giúp
đỡ những gia đình có người đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đảm bảo thực hiện
chính sách hậu phương quân đội.
Lênin nói khuyết điểm chính là ưu điểm đã được kéo dài. Đúng vậy, trong
kháng chiến chống Mỹ, mô hình hợp tác xã ở Miền bắc khá phù hợp, với quyết tâm
tất cả cho tiền tuyến, cho thống nhất đất nước, Đảng ta đã huy động được sức mạnh
toàn dân, miền bắc thi đua sản xuất chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền
nam. Năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả dân
tộc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh và
cấm vận kinh tế, điều kiện thực tiễn đã thay đổi, mô hình kinh tế đó dần dần bộc lộ
những mâu thuẫn, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng ngày càng trầm
trọng. Thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đổi mới đường lối phát triển kinh
tế – xã hội. Tuy nhiên do chưa nhận thức đúng thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta vẫn
vận hành nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp, đã mắc phải những
khuyết điểm như:
- Quá nóng vội trong tiến trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần gọi
là phi xã hội chủ nghĩa tại các tỉnh, thành phố phía Nam. Đối với các địa phương
phía Bắc, việc nóng vội đưa hàng loạt hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao chẳng những
đã không đạt được mục đích đẩy quan hệ sản xuất đi trước để thúc đẩy lực lượng
sản xuất lên theo mà ngược lại đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trên mặt trận nông nghiệp, mặc dù tỷ lệ nông dân tham gia vào hợp tác xã tăng
nhanh qua mỗi năm, nhưng sản lượng lương thực từ 13,5 triệu tấn năm 1976 cũng
chỉ tăng lên được 18,2 triệu tấn năm 1985. Đến năm 1985, mặc dù cả nước có tới
14052 hợp tác xã nông nghiệp nhưng một bộ phận không nhỏ các hợp tác xã ở trong
tình trạng “treo biển hợp tác xã” một bộ phận không nhỏ xã viên hợp tác xã đã quay
về làm kinh tế gia đình, và đa số đã chăm chút cho việc sản xuất và thu hoạch trên
phần đất 5% của mình. Trên thực tế đời sống kinh tế xã hội nông thôn ngày càng
xuất hiện nhiều sự so sánh giữa kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế hộ với nhau.
Tuy chưa có tuyên bố chính thức, nhưng đã xuất hiện tình trạng tự giải thể của mô
hình hợp tác xã với những quy mô, hình thức và phạm vi khác nhau không chỉ trong
nông nghiệp mà cả trong các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
mại, dịch vụ…
- Phát triển tràn lan các xí nghiệp quốc doanh trong hầu hết các ngành của nền kinh
tế quốc dân, vượt quá khả năng của Nhà nước về nhiều phương diện. Mặc dù tăng
mạnh các cơ sở quốc doanh trong nền kinh tế như vậy nhưng tổng sản phẩm xã hội
được tạo ra từ thành phần kinh tế quốc doanh trong giai đoạn này chỉ tăng 1,5 lần.
- Không thừa nhận địa vị pháp lý của một lực lượng sản xuất to lớn trong xã hội
thuộc các loại hình sở hữu gọi là phi xã hội chủ nghĩa, lực lượng này bao gồm các
hộ nông dân chưa vào hợp tác xã, những người làm ăn cá thể trong các ngành nghề
tiểu thủ công, những người kinh doanh cá thể trong các ngành thương mại dịch vụ.
- Phát triển nền kinh tế theo phương thức tự cung tự cấp, phương thức đổi hàng
trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế, chấp nhận cấm vận và bao vây kinh tế
của các thế lực thù địch. Một nền kinh tế khép kín và bị khép kín như vậy đã làm
mất đi những khả năng tiềm tàng, những khả năng trong tầm tay của việc sử dụng
và phát triển những lực lượng sản xuất từ hợp tác quốc tế đem lại. Trong giai đoạn
1976-1985 , mặc dù đã xây dựng được 1307 xí nghiệp nhà nước nhưng đó chỉ là
những xí nghiệp 100% vốn nhà nước, không có đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp của
nước ngoài vào Việt Nam. Nhược điểm của những xí nghiệp quốc doanh này là đã
đầu tư sử dụng trang thiết bị, công nghệ lạc hậu vài ba chục năm so với các nước
trong khu vực, do vậy đã để lại những hậu quả rất khó khăn về mặt hiệu quả đầu tư,
sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Những nguồn vốn này nếu Nhà nước đầu tư vào
sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới các công trình hạ tầng kinh tế kỹ thuật cho nền
kinh tế thì hiệu quả đầu tư sẽ cao hơn rất nhiều so với đầu tư vào những xí nghiệp
quốc doanh yếu kém.
Năm 1979 là năm kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam và sau đó là kết
thúc chiến tranh biên giới phía bắc, Đảng và Nhà nước tập trung hơn vào mặt trận
kinh tế. Trong thời gian đó, nền kinh tế đang gặp rất nhiều khó khăn, việc triển khai
Nghị quyết Đại hội IV đang vấp váp và tổn thất trên các mặt. Sản xuất bị đình trệ,
đời sống nhân dân bị giảm sút nhanh và ngày càng gặp nhiều khó khăn. Điều đó
buộc Đảng, Nhà nước và nhân dân phải tìm cách tháo gỡ. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IV ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu
tháo gỡ cho sản xuất và đời sống.
Trên thực tế nghị quyết này là nấc thang mới đầu tiên cho việc đổi mới tư
duy kinh tế thể hiện ở sự chấp nhận và có phần khuyến khích kinh tế cá thể, kinh tế
tư nhân và quan hệ thị trường tự do đến một mức độ nhất định trong khi đó vẫn giữ
quan điểm lâu dài là chế độ công hữu và cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nhưng dù
sao sự chấp nhận đó có thể coi là nấc thang mới, hơn nữa là bước đột phá trong tư
duy, vì sự thay đổi nhận thức đã bắt đầu vượt qua hai điều tối kị trong mô hình kinh
tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm chính thống lúc đó: kinh tế tư nhân và quan hệ
thị trường tự do. Bước đột phá đó đã bước đầu chấp nhận cơ cấu kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần. Trước đó, mọi cải tiến trên mặt trận kinh tế chỉ trong giới hạn cơ
chế quản lý, do đó đã gặp nhiều bế tắc, luẩn quẩn không thể tháo gỡ được. Sau nghị
quyết 6 của Ban chấp hành Trung ương khoá IV là chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung
ương về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, quyết định 25CP về quản lý xí nghiệp,
chủ trương kế hoạch hoá từ đơn vị cơ sở, ba phần kế hoạch, bốn nguồn cân đối, xuất
nhập khẩu tự cân đối, tự trang trải, chấp nhận thị trường tự do bên cạnh thị trường
có tổ chức... Tất cả các nghị quyết đó đều dựa trên cơ sở chấp nhận và triển khai cơ
cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, dù còn nhiều hạn chế.
Chính nhờ đó, sản xuất lưu thông đã bung ra rất sôi động, rộng khắp. Trên
thực tế, một mặt đã diễn ra tình hình chưa từng có, một phong trào quần chúng năng
động phát triển sản xuất lưu thông, phong trào nông dân nhận khoán,