Trải qua hơn mười năm đổi mới, đất nước Việt Nam đã có những bước chuyển mình
khởi sắc. Đặc biệt là việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế hàng hoá thị trường với nhiều thành phần kinh tế dưới sự điều tiết vĩ mô của nhà
nước theo định hướng XHCN. Trước kia, Nhà nước phải lo tiền vốn đến khâu tiêu thụ sản
phẩm . Thực trạng của nền kinh tế bao cấp đó kìm hãm sự phát triển và không có tính chất
động viên khuyến khích các doanh nghiệp năng động sáng tạo, chủ động trong kinh doanh,
Sự đổi mới cơ chế kinh tế của nhà nước toạ điều kiện cho các doanh nghiệp vươn nên tự
khẳng định được vị trí của mình cùng với việc chuyên đổi cơ chế quản lý của nhà nước là
quá trình mở rộng quyền tự chủ, giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng theo
hướng lời ăn, lỗ chịu đã đòi hỏi các doanh nghiệp phải bảo toàn và phát triển vốn. Điều này
đã tạo nên những cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Bên cạnh những doanh nghiệp năng động , sớm thích nghi với cơ chế thị trường đã
sử dụng vốn rất hiệu qủa thì vẫn còn có những doanh nghiệp đang trong tinh trạng khó khăn
trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của mình. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn tuy không còn là vấn đề mới mẻ, nhưng nó luôn đựơc các doanh nghiệp đặt ra trong suốt
quá trình hoạt động của mình.
Công ty Xây dựng cấp thoát nước là một trong những doanh nghiệp thành công trong
nghành Xây lắp nói riêng của Việt Nam nói chung đã nhận thấy : Để vươn lên hơn nữa trên
thương trường và ngày càng khẳng định mình không chỉ trong nước mà cả trên thế giới,
Công ty luôn quan tâm đến vấn đề làm thế nào để đồng vốn đưa vào hoạt động mang lại hiệu
quả cao nhất. Chính vì thế, qua một thời gian thực tập tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước,
được sự gợi ý của các cô chú trong phòng kế toán, Em quyết định chọn đế tài thực tập : “
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước “
86 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1983 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z
LUẬN VĂN:
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước
Lời nói đầu
Trải qua hơn mười năm đổi mới, đất nước Việt Nam đã có những bước chuyển mình
khởi sắc. Đặc biệt là việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế hàng hoá thị trường với nhiều thành phần kinh tế dưới sự điều tiết vĩ mô của nhà
nước theo định hướng XHCN. Trước kia, Nhà nước phải lo tiền vốn đến khâu tiêu thụ sản
phẩm . Thực trạng của nền kinh tế bao cấp đó kìm hãm sự phát triển và không có tính chất
động viên khuyến khích các doanh nghiệp năng động sáng tạo, chủ động trong kinh doanh,
Sự đổi mới cơ chế kinh tế của nhà nước toạ điều kiện cho các doanh nghiệp vươn nên tự
khẳng định được vị trí của mình cùng với việc chuyên đổi cơ chế quản lý của nhà nước là
quá trình mở rộng quyền tự chủ, giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng theo
hướng lời ăn, lỗ chịu đã đòi hỏi các doanh nghiệp phải bảo toàn và phát triển vốn. Điều này
đã tạo nên những cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Bên cạnh những doanh nghiệp năng động , sớm thích nghi với cơ chế thị trường đã
sử dụng vốn rất hiệu qủa thì vẫn còn có những doanh nghiệp đang trong tinh trạng khó khăn
trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của mình. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn tuy không còn là vấn đề mới mẻ, nhưng nó luôn đựơc các doanh nghiệp đặt ra trong suốt
quá trình hoạt động của mình.
Công ty Xây dựng cấp thoát nước là một trong những doanh nghiệp thành công trong
nghành Xây lắp nói riêng của Việt Nam nói chung đã nhận thấy : Để vươn lên hơn nữa trên
thương trường và ngày càng khẳng định mình không chỉ trong nước mà cả trên thế giới,
Công ty luôn quan tâm đến vấn đề làm thế nào để đồng vốn đưa vào hoạt động mang lại hiệu
quả cao nhất. Chính vì thế, qua một thời gian thực tập tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước,
được sự gợi ý của các cô chú trong phòng kế toán, Em quyết định chọn đế tài thực tập : “
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước “
Để phục vụ mục đích nghiên cứu Em dùng các biện pháp phân tích kinh doanh, các
phương pháp khấu hao học thống kê như so sánh số tuyệt đối, tương đối và số chênh lệch.
Kết cấu của khoá luận gồm ba chương :
Chương 1 : Vốn và hiệu quả sử dụng vốn
Chương 2 : Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước
Chương 3 : Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Xây dựng cấp thoát
nước
Chương 1
Vốn và hiệu quả sử dụng vốn
1.vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.Khái niệm về vốn kinh doanh
Tiền tệ ra đời là một trong những phát minh vĩ đại của loài người và điều đó đã làm
thay đổi bộ mặt của nền kinh tế-xã hội. Mọi sự vận động của sản xuất và tiêu dùng đều có
liên quan mật thiết với sự vận động của tiền tệ và có sự tác động qua lại. Đồng tiền trở thành
thước đo chung của tất cả các hoạt động trong nền kinh tế. Khái niệm vốn xuất hiện và vai
trò của vốn trong nền kinh tế nói chung, đối với doanh nghiệp nói riêng ngày càng trỏ nên
quan trọng.
Từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm về vốn:
Theo các nhà kinh tế học cổ điển tiếp cận vốn dưới góc độ hiện vật. Họ cho rằng vốn
là những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là cách hiểu phù hợp với
trình độ quản lý còn sơ khai. Nó rất đơn giản dễ hiểu nhưng chưa đầy đủ, chưa phản ánh đến
mặt tài chính của vốn.
Theo một số nhà tài chính thì vốn là tổng số tổng tiền do những người có cổ phần
trong Công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng khoán của Công
ty. Quan điểm này có ưu điểm là đã đề cập đến mặt tài chính của vốn. Khuyến khích các nhà
đầu tư tăng cường đầu tư, mỡ rộng và phát triển sản xuất song nó còn hạn chế là không nói
rõ nội dung và trạng thái của vốn trong quá trình sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Một số nhà kinh tế học khác cho rằng: vốn có ý nghĩa là phần lượng sản phẩm tạm
thời phải hy sinh tiêu dùng hiện tại của nhà đầu tư, để đẩy mạnh sản xuất tăng tiêu dùng
trong tương lai. Quan điểm này chủ yếu phản ánh động cơ về đầu tư nhiều hơn là về nguồn
gốc và biểu hiện của vốn, do vật quan điểm này củng không đáp ứng được yêu cầu về quản
lý nâng cao hiệu quả của vốn củng như việc phân tích về vốn doanh nghiệp.
Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm lại cho rằng: vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố
kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình,tài sản vô hình, các
kiến thức về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản lý
và tác nghiệp của cán bộ điều hành cùng chất lượng của đội ngũ công nhân viên trong doanh
nghiệp, các lợi thế về cạnh tranh như vị trí doanh nghiệp,uy tín doanh nghiệp...Quan điểm
này có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác đầy đủ hiệu quả của vốn trong cơ chế thị
trường. Tuy nhiên,việc xác định vốn theo quan điểm này rất khó khăn phức tạp nhất là khi
trình độ quản lý kinh tế chưa cao và pháp luật chưa hoàn chỉnh như nước ta.
Theo Mác ”vốn là giá trị mang lại giá trị thặng dư” tức là vốn đại diện cho một lượng
giá trị nhất định để tạo ra một lượng giá trị mới. Vì thế, tiền chỉ được gọi là vốn khi dùng để
đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mục đích tìm kiếm lợi
nhuận. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu của quản lý và sử dụng vốn, nhưng quan điểm này
mang tính chất trìu tượng, do vậy hạn chế về ý nghĩa đối với hạch toán và phân tích quản lý
sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Các quan điểm về vốn ở trên, một mặt thể hiện được vai trò tác dụng trong những
điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể. Nhưng mặt khác, trong
cơ chế thị trường hiện nay, đứng trên góc độ hạch toán và quản lý, các quan điểm đó chưa
đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về quản lý, hạch toán, phân tích đối với hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Trên cơ sở phân tích các quan điểm về vốn ở trên, khái niệm về vốn cần
phải thể hiện được bốn vấn đề sau:
-Nguồn gốc sâu xa của vốn kinh doanh là một bộ phận của thu nhập quốc dân được
tái đầu tư, để phân biệt được với vốn đất đai, vốn nhân lực.
-Trong trạng thái của vốn kinh doanh tham gia vào quá trính sản là tài sản vật chất (tài
sản cố định và tài sản dự trữ)và tài sản tài chính (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các tín phiếu,
các chứng khoán...)là cơ sở để ra các biện pháp quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp
một cách có hiệu quả.
-Phải chỉ ra được mối quan hệ mật thiết giữa vốn với các nhân tố khác của quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp(đất đai, lao động), điều này đòi hỏi các nhà
quản lý phải xem xét đến quá trình sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu qủa.
-Phải thể hiện mục đích quản lý sử dụng vốn đó là tìm kiếm các lợi ích kinh tế, lợi ích
xã hội mà vốn đem lại. Vấn đề này sẽ định hướng cho quá trình quản lý kinh tế nói chung,
quản lý vốn của doanh nghiệp nói riêng.
Từ bốn vấn đề trên, nói tóm lại vốn được hiểu là: Vôn là một phần thu nhập quốc dân
dưới dạng tài sản vật chất và tài sản tài chính được các cá nhân, các tổ chức, các doanh
nghiệp bỏ tiền ra tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích.
1.2.Đặc trưng của vốn
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải có tư liệu lao
động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp
các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm lao vụ, dịch vụ. Để tạo ra các yếu tố phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định ban đầu, có
tiền vốn doanh nghiệp mới tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như trả tiền lương
cho người lao động. Sau khi tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp dành một phần doanh thu thu
được để bù đắp lại giá trị tài sản cố định (TSCĐ) đã bị hao mòn, chi phí vật tư đã bị tiêu hao
và một phần để tạo lập quỹ dự trữ cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Như
vậy có thể thấy các tư liệu lao động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp phải đầu tư mua
sắm cho hoạt động sản xuất kinh doanh là hình thái hiện vật của vốn sản xuất kinh doanh.
Vốn bằng tiền là tiền đề cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp. Do vậy, vốn
sản xuất kinh doanh mang các đặc trưng cơ bản sau:
-Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định có nghĩa là vốn được biểu hiện
bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp.
-Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
-Vốn phải tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng
để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
-Vốn phải có giá trị về mặt thời gian. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh,
vốn luôn luôn biến động và chuyển hình thái vật chất theo thời gian và không gian theo công
thức:
T--- H--- SX---H’---T’
-Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quả lý chặt chẽ theo những
nguyên tắc nhất định.
-Vốn được quan niệm là một hàng hoá và là hàng hoá đặc biệt, có thể mua hoặc bán
bản quyền sử dụng vốn trên thị trường, tạo nên sự giao lưu sôi động trên thị trường vốn, thị
trường tài chính.
Như vậy, vốn ban đầu là hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vật tư hàng hoá, đó là
tư liệu lao động và đối tượng lao động trãi qua quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm lao vụ,
dịch vụ xong, vốn chuyển sang hình thái hàng hoá sản phẩm. Cuối cùng khi tiêu thụ sản
phẩm lao vụ, dịch vụ xong, vốn lại trở về hình thái tiền tệ. Do sự luân chuyển không ngừng
của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn sản xuất kinh doanh
nghiệp thường tồn tại dưới các hình thức khác nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông.
1.3.Kết cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.3.1.Căn cứ theo nguồn hình thành vốn
1.3.1.1.Vốn chủ sở hữu
Là số tiền vốn của chủ sở hữu, của các nhà đầu tư đóng góp. Số vốn này không phải
là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, không phải trả lãi suất. Vốn
chủ sở hữu được xác định là phần còn lại trong tài sản của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu
được hình thành theo các cách thức khác nhau thông thường nguồn vốn này bao gồm:
Vốn góp: là số vốn đóng góp của các thành viên tham gia thành lập doanh nghiệp, sử
dụng vào mục đích kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì đó là nguồn vốn do ngân
sách nhà nước cấp. Đối với Công ty liên doanh thì phần vốn góp của các đối trong và ngoài
nước tham gia thành lập liên doanh. Số vốn này có thể bổ sung và rút bớt trong quá trình
kinh doanh.
Lãi chưa phân phối: là số vốn có nguồn gốc từ lợi nhuận, đó là phần chênh lệch giữa
doanh thu và chi phí. Số lãi này trong khi chưa phân phối cho các chủ đầu tư, trích quỹ thì
được sử dụng trong kinh doanh như vốn chủ sở hữu.
1.3.1.2.Vốn vay
Là khoản tiền ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhận được từ ngân hàng, các tổ chức tài
chính, các đơn vị, tổ chức, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước để bổ sung vào vốn kinh
doanh của doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau(như phát hành trái phiếu, tín dụng
cầm đồ hoặc thế chấp tài sản, tín dụng có bảo lãnh, tín dụng thông qua chiết khấu, tín dụng
thương mại, tín dụng ứng tiền qua tài khoản)với hứa hẹn sẽ hoàn trả trong một thời hạn nào
đó trong tương lai.
Doanh nghiệp sử dụng vốn vay càng nhiều thì độ rủi ro càng cao. Nhưng để phục vụ sản
xuất kinh doanh thì đây là một nguồn huy động vốn lớn, tuỳ thuộc vào khã năng thế chấp,
tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông thường một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn trên để đảm bảo nhu
cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết cấu hợp lý giữa hai nguồn
nay phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động,cũng như quy định
của người quản lý doanh nghiệp trên cơ sở xem xét tình hình chung của nền kinh tế cũng
như tình hình thực tế tại doanh nghiệp.
1.3.2.Căn cứ vào thơi gian huy động và sử dụng vốn
1.3.2.1.Nguồn vốn thường xuyên
Đây là nguồn vốn mang tính ổn định, lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đầu
tư vào TSCĐvà một bộ phận TSLĐ tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm vốn chử sở hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp.
1.3.2.2.Nguồn vốn tạm thời
Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng
nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp. Nguồn vốn này gồm các khoản vay ngắn hạn và các khoản chiếm dụng của bạn
hàng.
Theo cách phân loại này còn giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp lập các kế hoạch tài
chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác
định quy mô số lượng vốn cần thiết, lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích hợp cho tường
nguồn vốn đó, khai thác những nguồn tài chính tiềm năng tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quã
cao.
1.3.3.Căn cứ vào phạm vi nguồn hình thành
1.3.3.1.Tự cung ứng
Cung ứng vốn nội bộ là phương thức tự cung ứng vốn của doanh nghiệp. Trong các
doanh nghiệp các phương thức tự cung ứng vốn cụ thể là:
-Khấu hao TSCĐ: TSCĐ là những tư liệu tham gia vào nhiều quá trình sản xuất.
Trong quá trình sử dụng TSCĐ bị hao mòn và chuyển dần giá trị của nó vào giá thành sản
phẩm. Trong quá trình sử dụng TSCĐ doanh nghiệp phải xác định mức độ hao mòn của
chúng để chuyển giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm. Đó chính là khấu hao TSCĐ việc xác
định mức khấu hao cụ thể tuỳ thuộc thực tiển sử dụng TSCĐ củng như ý muốn chủ quan của
con người. Trong chính sách tài chính cụ thể ở từng thời kỳ, doanh nghiệp có thể lựa chọn và
điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây là một công cụ điêù chỉnh nguồn cung ứng
vốn bên trong của mình. Tuy nhiên việc điều chỉnh khấu hao không thể diển ra một cách
tuỳtiện, không có kế hoạch mà phải dự trên cơ sở các kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn
đã được xác định. Mặt khác điều chỉnh tăng khấu hao TSCĐ sẽ đẩn đến tăng chi phí kinh
doanh khấu hao khấu hao TSCĐ trong giá thành sản phẩm mà giá thành lại luôn bị khống
chế bởi giá bán sản phẩm.
-Tích luỷ tái đầu tư: tích luỷ tái đầu tư là nguồn cung ứng quan trọng vì nó giúp cho
doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động, giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng và tăng
tiềm lực tài chính. Quy mô tự cung ứng vốn từ nguồn này phụ thuộc vào tổng số lợi nhuận
trong kỳ và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
-Điều chỉnh cơ cấu tài sản: phương thức này tuy không làm tăng vốn sản xuất kinh
doanh nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ
sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. Phương thức này giúp doanh nghiệp chủ động
không phụ thuộc vào bên ngoài, doanh nghiệp có toàn quyền quyết định việc sử dụng vốn
trong dài hạn với chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp. Tuy nhiên tự cung ứng có hạn chế là
quy mô cung ứng vốn nhỏ và nguồn bỗ sung có giới hạn.
1.3.3.2.Các phương thức cung ứng từ ngoài
-Từ ngân sách nhà nước: Doanh nghiệp được nhận một lượng vốn xác định từ ngân
sách nhà nước cấp.
-Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu: là hình thức doanh nghiệp được cung ứng vốn
trực tiếp từ thị trường chứng khoán làm nguồn vốn của doanh nghiệp tăng lên mà không làm
tăng nợ. Hình thức này có ưu điểm là tập hợp được lượng vốn lớn ban đầu, dễ tăng vốn trong
quá trình kinh doanh, bộ máy quản lý của doanh nghiệp có toàn quyền sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn này vì quyền sở hữu tách rời quyền quản trị. Tuy nhiên doanh nghiệp phải công
khai hoá tài chính, có thể làm cổ tức giảm…
-Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn: đây là hình thức cung ứng
vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát hành lượng vốn dưới hình thức trái phiếu
thường và bán cho công chúng, hình thức này làm tăng vốn đồng thời làm tăng cả nợ, có thể
thu hút một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân
hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ tuy nhiên doanh nghiệp phải nắm chắc
các kỹ thuật tài chính vì chi phí kinh doanh phát hành trái phiếu cao…
-Vay vốn của các ngân hàng thương mại: Doanh nghiệp có thể huy động được lượng
vốn lớn, đúng hạn tuy nhiên việc vay vốn đòi hỏi các doanh nghiệp phải có uy tín lớn, chấp
nhận thủ tục thẩm định ngặt nghèo và có chi phí sử dụng vốn cao.
-Tín dụng thương mại từ nhà cung cấp: trong hoạt động kinh doanh, do đặc điểm quá
trình cung ứng hàng hoá và thanh toán không thể khi nào củng diễn ra đồng thời do đó tín
dụng thương mại ra đời, có các hình thức tín dụng thương mại sau:
+Doanh nghiệp mua máy móc thiết bị, hàng hoá đem về sử dụng mà chưa phải trả
tiền ngay, điều này giúp cho doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu với vốn ít mà không làm
ảnh hưởng tới tình hình tài chính của mình. Tuy nhiên mua theo hình thức này doanh nghiệp
phải chịu chi phí kinh doanh sử dụng vốn cao.
+Vốn khách hàng ứng trước: đây là số tiền đặt cọc của khách hàng cho doanh nghiệp
sau khi ký kết hợp đồng, số tiền đặt cọc này doanh nghiệp được toàn quyền sử dụng mặc dù
chưa sản xuất và cung cấp sản phẩm.
-Tín dụng thuê mua: trong cơ chế thị trường tín dụng thuê mua được thực hiện giữa
một doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê
mua, hình thức này khá phổ biến và giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích,
không phải đầu tư một lần với vốn lớn,giảm được tỷ lệ nợ/vốn tuy nhiên chi phí kinh doanh
sử dụng vốn cao.
-Vốn liên doanh liên kết: giúp doanh nghiệp có một lượng vốn lớn cần thiết cho một
hoạt động nào đó mà không tăng nợ, các bên liên doanh cùng chia sẽ rủi ro song cũng cùng
chia sẽ lợi nhuận thu được.
-Cung ứng vốn từ sự kết hợp công và tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng.
-Nguồn vốn nước ngoài trực tiếp: với nguồn vốn này doanh nghiệp không chỉ nhận
được vốn mà còn nhận cả máy móc thiết bị cũng như phưong thức quản trị tiên tiến, đồng
thời doanh nghiệp còn được chia sẽ thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên doanh nghiệp phải chịu
sự kiểm soát điều hành của tổ chức cấp vốn, mối quan hệ hợp tác không biết sẽ kéo dài bao
lâu.
-Nguồn vốn ODA: đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn
này là các chương trình hợp tác cuả chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức
quốc tế khác. Hình thức này có chi phí sử dụng vốn thấp song thủ tục rất chặt chẽ.
1.3.4.Căn cứ vào vai trò, đặc điêm chu chuyển giá trị của vốn khi tham gia vào quá trình
sản xuất
1.3.4.1.Vốn cố định
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn ứng trước về tài sản cố định,
mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh
doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng.
Quy mô của vốn cố định quyết định quy mô của TSCĐ nhưng các đặc điểm của TSCĐ lại
ảnh hưởng tới sự vận động và công tác quản lý vốn cố định. Muốn quản lý vốn cố định một
cách có hiệu quả thì phải quản lý, sử dụng TSCĐ một cách có hữu hiệu TSCĐ. Từ mối quan
hệ trên,có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định.
-Vốn cố định được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Do TSCĐ có thể phát huy
trong nhiều chu kỳ sản xuất, vì thế vốn cố định –hình thái biểu hiện của nó cũng được tham
gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
-Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần khi tham gia vào quá trình sản
xuất, TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của
nó bị giảm dần và kéo theo giá trị của tài sản đó cũng bị giảm đi. Theo đó vốn cố định cũng
được tách làm hai phần:
*Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức khấu hao TSCĐ
tức là trong quá trình sử dụng và bảo quản, TSCĐ bị hao mòn(có thể bị hao mòn hữu hình và
hao mòn vô hình). Bộ phận giá trị của TSCĐ tương ứng với mức hao mòn mà nó được
chuyển dịch dần dần vào giá thành sản phẩm gọi là khấu hao TSCĐ, cụ thể là:
+Hao mòn hữu hì