Hơn 20 năm qua, trong thời kỡ đổi mới, vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần được coi là một nhu cầu tất yếu đối với Việt Nam. Từ nhận thức đúng đắn
về thời kỡ quỏ độ, Đảng đó quyết định đổi mới nền kinh tế, coi nền kinh tế nhiều thành
phần là đặc trưng của thời kỡ quỏ độ. Đại hội VI đó vận dụng đúng đắn quan điểm của
Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xó
hội chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế
của ta đó hoàn toàn là kinh tế xó hội chủ nghĩa. Vỡ vậy, ở nước ta cần thiết phải có
nhiều thành phần kinh tế phát triển bỡnh đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách
quan. Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành phần: kinh tế xó hội chủ nghĩa bao
gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư
bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại hội IX bổ
sung thêm một thành phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài. Trong quá trỡnh đổi
mới, 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Trong đó, kinh tế tư nhân
là một bộ phận giữ vai trũ cực kỡ quan trọng trong cơ cấu này.
Kinh tế tư nhân không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế của hầu
hết các quốc gia mà cũn trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa chớnh trị toàn cầu.
Phỏt triển khu vực kinh tế tư nhân cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa dạng phong phú
của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc của mọi sự phát triển.
26 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1822 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến
lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần định hướng XHCN
A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Hơn 20 năm qua, trong thời kỡ đổi mới, vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần được coi là một nhu cầu tất yếu đối với Việt Nam. Từ nhận thức đúng đắn
về thời kỡ quỏ độ, Đảng đó quyết định đổi mới nền kinh tế, coi nền kinh tế nhiều thành
phần là đặc trưng của thời kỡ quỏ độ. Đại hội VI đó vận dụng đúng đắn quan điểm của
Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xó
hội chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế
của ta đó hoàn toàn là kinh tế xó hội chủ nghĩa. Vỡ vậy, ở nước ta cần thiết phải có
nhiều thành phần kinh tế phát triển bỡnh đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách
quan. Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành phần: kinh tế xó hội chủ nghĩa bao
gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư
bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại hội IX bổ
sung thêm một thành phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài. Trong quá trỡnh đổi
mới, 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Trong đó, kinh tế tư nhân
là một bộ phận giữ vai trũ cực kỡ quan trọng trong cơ cấu này.
Kinh tế tư nhân không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế của hầu
hết các quốc gia mà cũn trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa chớnh trị toàn cầu.
Phỏt triển khu vực kinh tế tư nhân cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa dạng phong phú
của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc của mọi sự phát triển.
Ngày nay sở hữu tư nhân đó phỏt triển lờn một trỡnh độ mới về chất, quy mô sở hữu
của nhiều công ty ngày càng đồ sộ và nhiều công ty tạo ra lượng tài sản có giá trị lớn
hơn cả GDP của một số quốc gia. Cùng với quá trỡnh phỏt triển kinh tế, nhõn loại
càng ngày càng sỏng tạo ra nhiều loại hỡnh sở hữu mới. Ngoài sở hữu tài sản hữu
hỡnh, người ta không chỉ sở hữu những tài sản vô hỡnh như các nhón hiệu hàng húa,
bớ quyết cụng nghệ mà cũn sở hữu cả khụng gian ảo trờn mạng Internet và tài sản ảo
là những thông tin đang tràn ngập trên mạng thông tin toàn cầu. Trong nền kinh tế thị
trường mở, quốc gia nào có nền kinh tế tư nhân tham gia nhiều nhất, đầy đủ nhất và
sâu sắc nhất vào nền kinh tế toàn cầu thỡ quốc gia đó sẽ càng có ưu thế trong cạnh
tranh. Trên thực tế, kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước cùng tồn tại trong một thế giới
ngày nay, thế nhưng kinh tế tư nhân lại tỏ ra năng động, có sức sống hơn và phát triển
mạnh mẽ hơn. . Đó là do kinh tế tư nhân có sự tương thích rất cao với kinh tế thị
trường, đặc biệt là tính chất mở cửa thị trường ngày càng tăng, sự hợp tác và cạnh
tranh quốc tế đũi hỏi cỏc thực thể kinh tế phải rất linh hoạt và tự chủ trong hoạt động
kinh doanh, điều này vốn là nhược điểm của kinh tế nhà nước Thực tế cho thấy kinh tế
tư nhân có vai trũ đắc lực tạo ra sự phát triển của xó hội, tạo cho mỗi cỏ nhõn vụ số cơ
hội có việc làm để khẳng định mỡnh, để mưu cầu cuộc sống và hạnh phúc, tức là góp
phần tạo ra con người với nhiều phẩm chất tốt đẹp hơn. Phát triển kinh tế, suy cho
cùng không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện. Mục tiêu tối thượng của nhân loại
là xó hội phỏt triển, con người phát triển. Có thể nói rằng kinh tế tư nhân là một
phương tiện quan trọng để con người có cơ hội hoàn thiện mỡnh trong quỏ trỡnh phát
triển hướng thiện của nhân loại. Con người đó sỏng tạo ra và quyết định lựa chọn kinh
tế tư nhân để phát triển, nhưng đồng thời kinh tế tư nhân lại là môi trường tốt để con
người tự thân phát triển, con người có cơ hội tự hoàn thiện vỡ sự phỏt triển của chính
nó và thông qua đó phát triển toàn xó hội. Túm lại, kinh tế tư nhân là hỡnh thức kinh
tế tự nhiờn của quỏ trỡnh phỏt triển xó hội, tồn tại và phỏt triển ngoài ý muốn chủ
quan của con người, chừng nào con người cũn cần đến kinh tế tư nhân như là một
phương tiện hữu hiệu để xây dựng và kiến tạo cuộc sống của mỡnh, thỡ kinh tế tư
nhân cũn tồn tại như một hành trang của con người trong tiến trỡnh đi tới tương lai.
Nhận thức được điều này, nghị quyết TW5 đó chỉ rừ “phỏt triển kinh tế tư nhân
là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng
XHCN, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh
tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế
quốc tế”. Theo Báo cáo chính trị của ban chấp hành TW Đảng khóa IX, Nhà nước ta
chủ trương phát triển mạnh các loại hỡnh doanh nghiệp của tư nhân, xoá bỏ mọi rào
cản, tạo tâm lý xó hội và mụi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hỡnh doanh
nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực,
kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không
cấm. Như vậy có thể thấy rằng, cho đến nay, Đảng và Nhà nước đó khẳng định: sự tồn
tại của kinh tế tư nhân không những là sự tồn tại khách quan mà chúng ta phải chấp
nhận, mà trong bối cảnh hiện nay, sự tồn tại đó đang đóng một vai trũ quan trọng trong
sự nghiệp phỏt triển kinh tế.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, em xin được đi sâu tập trung vào một số nội
dung về những vấn đề chung về kinh tế tư nhân, thực trạng của kinh tế tư nhân và đề
xuất một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân.
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề lí luận về kinh tế tư nhân.
1. Quan niệm và đặc điểm của kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân là khái niệm chỉ khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm các hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc nhóm các thành phần kinh tế tư nhân. Tiêu
thức cơ bản để xác định một thành phần kinh tế, một hình thức tổ chức sản xuất nào đó
có thuộc kinh tế tư nhân hay không là quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu.
Theo đó kinh tế tư nhân là một khu vực kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất (hoặc vốn) với các hình thức tổ chức kinh doanh như doanh nghiêp, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp doanh, các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu
chủ và bộ phận các doanh nghiệp của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Kinh tế tư nhân không phải là một thành phần kinh tế mà là phạm trù để chỉ
nhóm thành phần kinh tế vừa có những đặc trưng chung, lại vừa có bản chất khác
nhau. Có thể xem xét kinh tế tư nhân trên các quan hệ kinh tế cơ bản sau đây:
Quan hệ sở hữu: Kinh tế tư nhân thể hiện quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất(hoặc vốn) cũng như phần của cải vật chất được tạo ra từ tư liêu sản xuất(hay vốn)
đó. Nó bao gồm sở hữu tư nhân nhỏ, là sở hữu của những người lao động tự do, sản
xuất ra sản phẩm nhờ lao động của chính mình và các thành viên trong gia đình(như
thợ thủ công cá thể, tiểu thương, các hộ nông dân…) và sở hữu tư nhân lớn của các
nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài đầu tư ở Việt Nam.
Quan hệ quản lý: Xuất phát từ quan hệ sở hữu của kinh tế tư nhân, quan hệ quản
lý của khu vực kinh tế này gồm các quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và
quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân
nhỏ là quan hệ dựa trên sự tự tổ chức, điều hành hay tổ chức, điều hành, phân công
việc trong nội bộ gia đình, giữa các thành viên gia đình với nhau. Quan hệ quản lý dựa
trên sở hữu tư nhân lớn là quan hệ quản lý giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý
và khách thể quản lý, giữa người quản lý với người bị quản lý.
Quan hệ phân phối: Trong kinh tế tư nhân, quan hệ phân phối dựa trên cơ sở
các loại hình sở hữu tư nhân khác nhau. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mà
người sở hữu đồng thời là người trực tiếp lao động, không thuê mướn nhân công, thì
phân phối kết quả sản xuất là tự phân phối trong nội bộ chủ thể kinh tế đó. Còn đối với
các cơ sở sản xuất kinh doanh lớn, chủ sở hữu tư liệu sản xuất (hay vốn) sử dụng lao
động của lao động làm thuê thì phân phối kết quả sản xuất căn cứ vào sở hữu giá trị,
tức là giá trị sức lao động của lao động làm thuê và sở hữu tư bản. Trong các chế độ
chính trị xã hội khác nhau thì quan hệ phân phối của kinh tế tư nhân cũng có sự khác
biệt nhất định.
Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư nhân là một trong những nhân tố có tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Song, nếu để tự phát, không định hướng cho
khu vực kinh tế tư nhân thì tất yếu sẽ dẫn đến tác động tiêu cực, gây nên sự bất ổn định
về kinh tế xã hội. Vì vậy, cần xác định rõ những xu hướng phát triển của kinh tế tư
nhân và có sự định hướng tích cực tới khu vực này. Đảng ta đó chủ trương đưa nền
kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, cú sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
xó hội chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, kinh tế
tư nhân vận động theo các đặc điểm, xu hướng cơ bản sau:
Một là, kinh tế tư nhân gắn liền với phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường. Tức là, mỗi thành phần kinh tế không thể tự tiến hành sản
xuất và lưu thông hàng hoá một cách bình thường, nếu không thực hiện những mối
quan hệ kinh tế trong nội bộ từng thành phần và giữa các thành phần kinh tế với nhau,
giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân. Các thành phần kinh tế, các
khu vực kinh tế chỉ có thể tồn tại và phát triển trong mối quan hệ phụ thuộc vào nhau
qua các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Các thành phần kinh tế, khu vực kinh tế
vừa cạnh tranh với nhau, vừa hợp tác, hỗ trợ, thúc đẩy nhau, là tiền đề phát triển của
nhau theo cơ chế thị trường trong nền kinh tế thống nhất.
Hai là, phát triển kinh tế tư nhân phải kết hợp với các mục tiêu độc lập tự chủ, xã
hội chủ nghĩa trong cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Không thể phủ nhận
rằng kinh tế tư nhân đóng góp một phần không nhỏ vào nền kinh tế quốc dân, tuy
nhiên không phải vỡ thế mà cú thể để cho kinh tế tư nhân tự do phát triển mà thiếu sự
quản lí của Nhà nước. Thiếu sự định hướng của Nhà nước, các thành phần kinh tế tư
bản tư nhân, cá thể và tiểu chủ, bộ phận doanh nghiệp của các nhà tư bản tư nhân nước
ngoài đầu tư xây dựng(100% hoặc góp vốn với các cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân
trong nước) vốn thuộc phạm trù kinh tế sẽ chệch hướng, tự phát sang chủ nghĩa tư bản.
éối với chỳng ta, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cuộc đấu tranh để
bảo vệ độc lập tự chủ về kinh tế, nhỡn rộng hơn là bảo vệ sự lựa chọn con đường phát
triển của mỡnh, nhất thiết Việt Nam khụng thể coi nhẹ, càng khụng thể thiếu vai trũ
chủ đạo của kinh tế nhà nước. éú là vấn đề sinh tử, mang tính quy luật của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xó hội. Thực tế cho thấy, nếu Việt Nam khụng cú khu vực kinh tế
nhà nước đủ mạnh, sẽ không có những thành tựu về hội nhập kinh tế quốc tế khả quan
như đó thấy; đồng thời, vẫn giữ vững sự ổn định và phát triển về kinh tế, chính trị, xó
hội qua mỗi chặng đường phức tạp và đầy cam go của công cuộc đổi mới hơn 20 năm
vừa qua.
Ba là, phát triển kinh tế tư nhân phải nhằm đạt tới hệ các mục tiêu: huy động
vốn, tạo việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư, tăng tổng sản phẩm xã hội và tăng
thu cho ngân sách nhà nước. Quan điểm thừa nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế tư
nhân không ngoài mục đích khai thác, phát huy tốt nhất mọi năng lực sản xuất của họ
để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo ra nhiều của cải cho xã hội.
Bốn là, phát triển kinh tế tư nhân theo hướng đa dạng hoá sở hữu, đan xen các
hình thức sở hữu theo các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Phỏt triển nền kinh tế
nhiều hỡnh thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trũ chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Trên đây là những xu hướng phát triển chủ yếu của kinh tế tư nhân trong thời kỡ
quỏ độ lên CNXH ở Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu liên kết các lực lượng
trong nước thành một lực lượng kinh tế dân tộc trong quá trình mở cửa, hội nhập với
khu vực và thế giới, đưa nước ta trở thành một cường quốc trên thế giới.
2.Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế thị trường.
Sự phỏt triển xó hội gắn liền với sự phỏt triển ngày càng phong phỳ cỏc quyền
cỏ nhõn. Sự phỏt triển của cỏc quyền cỏ nhân đến lượt nó sẽ thúc đẩy kinh tế tư nhân
phát triển mạnh mẽ.
Không có các quyền cá nhân làm tiền đề thỡ khụng thể cú cỏc quyền của kinh
tế tư nhân. Trong thực tế, hiện nay, những hiện tượng can thiệp vào đời sống cá nhân
diễn ra tràn lan ở khá nhiều quốc gia. Khi chúng ta không xây dựng, không tôn trọng
các quyền cá nhân, có nghĩa là các giá trị cá nhân không được pháp chế hóa, định chế
hóa, hoặc chúng ta không nhận thức các quyền cá nhân như những động lực của sự
phát triển cá nhân, như những không gian xó hội cần thiết cho một cỏ nhõn phỏt triển
thỡ khụng thể phỏt triển khu vực tư nhân lành mạnh được. Chừng nào một xó hội chưa
tôn trọng các quyền cá nhân, kèm theo đó là sở hữu cá nhân thỡ xó hội đó không thể
xây dựng khu vực kinh tế tư nhân một cách chuyên nghiệp được.
Hơn nữa, ở Việt Nam trong thời kỡ quỏ độ lên CNXH, thỡ kinh tế tư nhân giữ
một vai trũ cực kỡ quan trọng, khụng thể thiếu được nhằm góp phần phát triển nền
kinh tế quốc dân, tạo tiền đề về vật chất cho CNXH.
Tóm lại, kinh tế tư nhân là hỡnh thức kinh tế tự nhiờn của quỏ trỡnh phỏt triển
xó hội, tồn tại và phỏt triển ngoài ý muốn chủ quan của những nhà chớnh trị cho dự họ
đại diện cho bất kỳ lực lượng xó hội nào, hoặc nhõn danh ai, hoặc với mục đích nhân
đạo hay cao cả đến đâu chăng nữa. Chừng nào con người cũn cần đến kinh tế tư nhân
như là một phương tiện hữu hiệu để xây dựng và kiến tạo cuộc sống của mỡnh và đồng
loại, thỡ kinh tế tư nhân cũn tồn tại như một hành trang của con người trong tiến trỡnh
đi tới tương lai.
II. Đánh giá thực trạng của kinh tế tư nhân trong quá trỡnh hỡnh thành và phỏt
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1. Tiến trỡnh phỏt triển.
a. Trước thời kỡ đổi mới.
Trước thời kỡ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương cải tạo XHCN với
công nghiệp và thương nghiệp tư bản tư doanh, đồng thời đầu tư xây dựng mới các xí
nghiệp quốc doanh.
Sau khi thống nhất đất nước, ở miền Bắc, công cuộc cải tạo XHCN đối với tư
bản tư doanh đó cơ bản hoàn thành, gần 100% hộ tư sản thuộc diện cải tạo đó được cải
tạo, 45,6% số tiểu thương vào hợp tác xó. Cũn ở miền Nam, nghị quyết Đại hội Đảng
khóa IV đặt ra mục tiêu đến năm 1980 phải hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo
XHCN đối với công thương nghiệp, tháng 1/1977, Bộ Chính trị đó quyết định: hoàn
thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh
trong 2 năm 1977 – 1978, trước hết là xóa bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Thực
hiện chủ trương đó, công cuộc cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam đó
được đẩy nhanh và thực hiện triệt để.Về thương nghiệp, Đảng ta chủ trương “xóa bỏ
ngay thương nghiệp tư bản tư doanh” bằng nhiều biện pháp như: kiểm kê, tịch thu
hàng hóa, đánh thuế siêu ngạch đối với tư sản thương nghiệp, tịch thu các cơ sở kinh
doanh của họ. Đến năm 1978, Nhà nước ta tuyên bố đó hoàn thành công cuộc cải tạo
tư sản công thương nghiệp ở miền Nam.
Do cũn núng vội trong cụng cuộc xõy dựng CNXH và chưa nhận thức được tầm
quan trọng của kinh tế tư nhân, trước thời kỡ đổi mới Đảng ta đó tiến hành cải tạo
XHCN và xúa bỏ gần như triệt để thành phần kinh tư nhân. Điều này phần nào đó dẫn
đến khủng hoảng về kinh tế - xó hội của nước ta trước thời kỡ đổi mới: kinh tế tăng
trưởng chậm, cơ sở vật chất, kĩ thuật lạc hậu, cũ nát,nền kinh tế quốc dân mất cân đối
nghiêm trọng về cơ cấu, sản xuất phát triển chậm, sản xuất không đủ tiêu dùng, nợ
nước ngoài lớn, phân phối lưu thông bị rối ren, thị trường tài chính, tiền tệ không ổn
định, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, trật tự xó hội giảm sỳt.
Rừ ràng, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung và kinh tế tư nhân tư nhân
nói riêng là một nhân tố không thể thiếu trong thời kỡ quỏ độ ở nước ta. Vỡ thế từ năm
1986, Đảng đó chủ trương đổi mới nền kinh tế theo hướng khác hẳn trước đó.
b. Thời kỡ đổi mới.
Chỉ sau mấy năm, khi tư tưởng của đại hội VI được quán triệt trong cuộc sống,
khu vực kinh tế tư nhân có những bước phát triển rõ rệt. Nếu quan niệm kinh tế tư
nhân gồm các doanh nghiệp tư nhân (DNTN), các công ty trách nhiệm hữu hạn
(CTTNHH) và các công ty cổ phần (CTCP) được thành lập theo luật doanh nghiệp tư
nhân và luật công ty mà nhà nước ban hành thì chúng ta thấy có sự phát triển rất nhanh
chóng.
Năm 1991 có 414 DNTN, CTTNHH và CTCP thì năm 1992 là 5198 DN, năm
1993 là 6808, năm 1994: 10881, năm 1995: 15276, năm 1996: 18894, năm 1997:
25002, năm 1998: 26021. Như vậy số DN năm 1998 tăng 2 lần so với năm 1991, và
mỗi năm kể từ năm 1991-1998, bình quân tăng 3252 DN (khoảng 32% một năm).
-Trong lĩnh vực nông nghiệp:
Cùng với sự đổi mới của kinh tế hợp tác, các luật đầu tư nước ngoài, luật đầu
tư trong nước, luật thương mại thông qua vào những năm 90 đã tác động rất mạnh tới
khu vực nông nghiệp, tới hàng triệu nông dân Việt Nam. Kinh tế hộ gia đình nông dân,
kinh tế trang trại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có tính chất công nghiệp ở
nông thôn phát triển mạnh, tạo nên sự thay đổi to lớn bộ mặt của nhiều vùng nông
thôn. Nếu như năm 1990, số lượng các hộ cá thể có khoảng trên 9,4 triệu hộ thì đén
năm 1995 đã lên tới 11974595 hộ hoạt động trên gần 9000 xã trong khắp 7 vùng sinh
thái. Trong đó, số hộ nông nghiệp là 9528896 hộ (chiếm 79,58%); hộ lâm nghiệp là
18456 hộ (chiếm 0,15%); hộ thuỷ sản là 229909 hộ (chiếm 1,92%); hộ công nghiệp là
160370 hộ(chiếm 1,34%); hộ xây dựng là 31914 hộ(chiếm 0,27%); hộ thương nghiệp
là 384272 hộ (chiếm 3,21%), hộ dịch vụ là 14165 hộ(chiếm 1,18%); hộ khác là
1479341(chiếm 12,35%). Trong số các hộ đó, nhóm hộ nông nghiệp chiếm tỷ trọng
lớn nhất(79,58%), nhưng nếu hiểu nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả nông, lâm,
ngư nghiệp thì hộ nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn hơn nữa: 81,65%. Đây thực sự
là lực lượng kinh tế mạnh thể hiện trên các mặt sau đây:
Chỉ trong thời gian ngắn, các hộ nông dân đã mua sắm rất nhiều trang thiết bị
hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp lên một bước. Nông dân
đã bỏ vốn lập trên 110000 trang trại trong đó riêng các tỉnh phía Bắc 67000 trang trại.
Các trang trại đã tạo ra một lượng hàng hoá lớn với tỷ trọng hàng hoá là 86,74% tạo
việc làm cho 60 vạn lao động.
Có thể nói khu vực kinh tế tư nhân trong nông nghiệp thời gian qua đã góp phần
xứng đáng vào thành tích của ngành nông nghiệp nói chung: tạo ra gần 1/4 tổng sản
lượng của Việt Nam, và 30% kim ngạch hàng xuất khẩu(Bao gồm cả thuỷ sản). Theo
tổng cục thống kê, nếu như năm 1990 nông nghiệp chiếm 32% GDP của Việt Nam thì
năm 1999 nông nghiệp chiếm tỷ trọng là 24% GDP.
- Trong lĩnh vực công nghiệp:
Với cơ chế mới, khu vực kinh tế tư nhân cũng thâm nhập mạnh mẽ vào lĩnh vực
công nghiệp. Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp (bao gồm các doanh
nghiệp hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài) đã đưa phần đóng góp vào sản lượng công nghiệp cả nước từ 37%
năm 1990 lên 58% năm 2000, trong đó đóng góp quan trọng nhất là các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí và lĩnh vực công nghiệp chế tạo(khu
vực kinh tế tư nhân trong năm 2000 chiếm 22,7%, khu vực đầu tư nước ngoài chiếm
35,2%). Khu vực kinh tế tư nhân trong nước mà đặc biệt là các doanh nghiệp hộ gia
đình có vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo. năm 1999 có 600000
doanh nghiệp hộ gia đình nhỏ hoạt động tr