Lạm phát là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Trong thời đại ngày nay,
lạm phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế - xã hội ở các
quốc gia. Với tư cách là tổng hòa của các chính sách kinh tế - xã hội v ĩ mô, lạm phát đã
có những tác động trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ
này hay mức độ khác... đến toàn bộ các lĩnh vực và khía cạnh hoạt động của Chính phủ,
doanh nghiệp, cá nhân, đến các quan hệ kinh tế đối ngoại và đối nội của quốc gia và tác
động đến tình hình kinh tế khu vực và thế giới v ới mức độ tùy theo vị thế kinh tế chính trị
mà nước đó đã đảm nhận trong khu vực và thế giới. Thực tiễn cho thấy lạm phát trên thế
giới luôn biến động không ngừng cùng với nhiều đặc tính mới m ẻ.
Trong những năm gần đây, một số ngân hàng trung ương các nước đã quyết
định chuyển hướng chính sách tiền tệ sang thực hiện chính sách lượng hóa mục tiêu lạm
phát. Kết quả nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, những quốc gia áp dụng chính sách
mục tiêu lạm phát đã rất thành công trong việc duy trì tỷ lệ lạm phát thấp trong dài hạn,
kinh tế tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra những lợi ích tiếp
theo từ việc thực thi chính sách mục tiêu lạm phát, bao gồm: làm tăng rõ ràng, minh
bạch công khai của chính sách tiền tệ; làm tăng trách nhiệm của NHTW; giúp công
chúng hiểu được chính sách tiền tệ một cách đơn giản, dễ dàng và hiệu quả; cải thiện
được môi trường tăng trưởng kinh tế ổn định; và nâng cấp phúc lợi xã hội.
Để đạt được các mục tiêu ổn định giá cả lâu dài, cho đến nay các NHTW đã sử
dụng các chính sách tiền tệ khác nhau như: Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá cố định,
chính sách tiền tệ dựa vào khối lượng tiền cung ứng; Chính sách tiền tệ dựa vào GDP
danh nghĩa, và hiện nay, chính sách tiền tệ có xu hướng dựa vào lượng hóa mục tiêu
lạm phát.
119 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2051 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm
phát trong việc thực thi chính sách tiền
tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạm phát là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Trong thời đại ngày nay,
lạm phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế - xã hội ở các
quốc gia. Với tư cách là tổng hòa của các chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô, lạm phát đã
có những tác động trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ
này hay mức độ khác... đến toàn bộ các lĩnh vực và khía cạnh hoạt động của Chính phủ,
doanh nghiệp, cá nhân, đến các quan hệ kinh tế đối ngoại và đối nội của quốc gia và tác
động đến tình hình kinh tế khu vực và thế giới với mức độ tùy theo vị thế kinh tế chính trị
mà nước đó đã đảm nhận trong khu vực và thế giới. Thực tiễn cho thấy lạm phát trên thế
giới luôn biến động không ngừng cùng với nhiều đặc tính mới mẻ.
Trong những năm gần đây, một số ngân hàng trung ương các nước đã quyết
định chuyển hướng chính sách tiền tệ sang thực hiện chính sách lượng hóa mục tiêu lạm
phát. Kết quả nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, những quốc gia áp dụng chính sách
mục tiêu lạm phát đã rất thành công trong việc duy trì tỷ lệ lạm phát thấp trong dài hạn,
kinh tế tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra những lợi ích tiếp
theo từ việc thực thi chính sách mục tiêu lạm phát, bao gồm: làm tăng rõ ràng, minh
bạch công khai của chính sách tiền tệ; làm tăng trách nhiệm của NHTW; giúp công
chúng hiểu được chính sách tiền tệ một cách đơn giản, dễ dàng và hiệu quả; cải thiện
được môi trường tăng trưởng kinh tế ổn định; và nâng cấp phúc lợi xã hội.
Để đạt được các mục tiêu ổn định giá cả lâu dài, cho đến nay các NHTW đã sử
dụng các chính sách tiền tệ khác nhau như: Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá cố định,
chính sách tiền tệ dựa vào khối lượng tiền cung ứng; Chính sách tiền tệ dựa vào GDP
danh nghĩa, và hiện nay, chính sách tiền tệ có xu hướng dựa vào lượng hóa mục tiêu
lạm phát.
Việc thiết lập chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát (NHTW sẽ
điều tiết nền kinh tế sao cho lạm phát chỉ ở mức độ nào đấy và từ đó sẽ lan tỏa đến mục
tiêu khác như tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm) điều này có nghĩa là lạm
phát là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thiết lập chính sách tiền tệ.
Từ sau khi nền kinh tế Lào chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ
mô của Nhà nước mà hoạt động của hệ thống ngân hàng nhà nước được coi là khâu "đột
phá khẩu", thì hệ thống NHNN Lào đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực thi
mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ, kiềm chế, kiểm soát lạm phát (năm 1998 tỷ lệ lạm
phát là 90%, năm 1999: 128,38%, 2000: 23%, năm 2001: 7,81%, năm 2004: 10,46% và
đến tháng 6/2005 là 5,35%). Đi đôi với những thành công đã nói trên, hoạt động kiềm
chế, kiểm soát lạm phát còn một số hạn chế về mặt chủ quan và mặt khách quan. Hiện
tượng lạm phát diễn ra rất phức tạp trong năm 2002, tăng lên 10,63% và đến năm 2003
lại tăng lên 15,49% và cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của Lào, đặc biệt
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Là một chính sách mới, nên chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát đang được các
nhà quản lý ngân hàng, các nhà kinh tế nghiên cứu, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm
thông qua thực tế của các nước đang áp dụng chính sách này.
ở CHDCND Lào hiện nay vấn đề này còn khá mới mẻ và phức tạp, chính vì vậy
tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi
chính sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào" làm luận văn thạc sĩ kinh tế,
chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, nền kinh tế không chỉ chịu ảnh
hưởng của các yếu tố bên trong mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi những yếu tố bên
ngoài. Đến nay, trên thế giới đã rất nhiều lý thuyết, nhiều cuốn sách, nhiều bài báo và
rất nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế đã nghiên cứu vấn đề này.
Một số công trình đã nghiên cứu về chính sách mục tiêu lạm phát đối với các
quốc gia: Kinh tế học, sách tham khảo tập II của Paul a Samuelson Wiliamd. Nordhalls;
Lý thuyết lạm phát giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam (sách tham khảo) của PTS.
Nguyễn Minh Phong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lạm phát hành trình và giải
pháp chống lạm phát ở Việt Nam của Lê Quốc Lý, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2005; Lạm
phát mục tiêu: Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho Việt Nam của Phi Trọng Hiển, Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế, số 323/2005; Chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát một cách
tiếp cận trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam của Đỗ Thị Đức Minh,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội, 2005...
Với nội dung của các công trình nghiên cứu nói trên thì lĩnh vực nghiên cứu và đối
tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bức xúc đối với CHDCND Lào hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Dựa trên lý thuyết chung của các nhà kinh tế học, đặc biệt trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng và những bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về vấn đề
kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Trên cơ sở đó, đối với
CHDCND Lào để làm rõ một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi
chính sách tiền tệ trong thời gian qua, rút ra được những nguyên nhân cơ bản của lạm
phát, có được những bài học kinh nghiệm để từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhất
trong việc thực thi chính sách tiền tệ tại CHDCND Lào góp phần ổn định chính sách
tiền tệ và phát triển nền kinh tế của đất nước một cách bền vững.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ các lý thuyết về lạm phát và chính sách tiền tệ.
- Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách này ở một số nước để rút ra bài học
cho CHDCND Lào.
- Phân tích thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của CHDCND Lào, từng giai
đoạn, đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện chính sách kiểm soát lạm phát.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề chung về CSTT với mục tiêu kiểm soát lạm phát, tình hình thực
hiện của mục tiêu này ở một số nước và thực trạng điều hành CSTT của CHDCND Lào
từ 1994 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và dựa
trên đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở phương pháp luận. Các phương
pháp được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp thống kê và miêu
tả, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh...
6. Đóng góp của luận văn
- Phân tích thực trạng thực thi CSTT nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát trong
năm qua, rút ra được thành công và hạn chế.
- Đưa ra các giải pháp chủ yếu, kiến nghị cụ thể có tính xây dựng nhằm năng cao
hiệu quả cao trong việc điều hành CSTT nói chung, mục tiêu kiểm soát lạm phát nói
riêng ở CHDCND Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Lạm Phát và chính sách tiền tệ
với mục tiêu kiểm soát lạm phát
1.1. Những vấn đề cơ bản về lạm phát
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế đi liền với nền kinh tế thị trường. Có những
nhà kinh tế đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ này, nhưng nói chung, chưa có sự
thống nhất hoàn toàn. Trong khi đó lạm phát luôn diễn ra và tác động đến nhiều mặt đối
với nền kinh tế các nước phát triển và đang phát triển, các nước từ lâu đã theo mô hình
của nền kinh tế thị trường và cả các nước đang có quá trình chuyển đổi. Không chỉ dừng
lại ở việc không thống nhất được với nhau một định nghĩa đúng về lạm phát mà còn
không thống nhất được với nhau những tác động do lạm phát mang lại.
Chính vì thế, cần thiết phải nhìn nhận vấn đề một cách có hệ thống hơn để từ đó
có những chính sách và giải pháp phù hợp ứng với những đổi thay đã và đang diễn ra
trong đời sống kinh tế
1.1.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các
nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về lạm
phát. Karl Marx cho rằng: "Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết" [3, tr.
365]. Vào thập niên 1960, Milton Friedman khẳng định lại rằng: "Lạm phát bao giờ và ở
đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ" [15, tr. 800]. Theo thuyết trọng tiền (monetarism) - một
trường phái lớn về khoa kinh tế vĩ mô cho rằng, cần phải chú ý đến tổng mức chi tiêu của
xã hội và việc cung ứng tiền cho chi tiêu đó. Thuyết trọng tiền cho tiền tệ là trung tâm của
nền kinh tế, và việc cung tiền là nhân tố quyết định những sự vận động của tổng sản phẩm
quốc dân danh nghĩa trong ngắn hạn và nó là nhân tố quyết định đến giá cả trong dài hạn.
Thực ra, không nhất thiết bắt nguồn từ nguyên nhân là tiền tệ, tức là tăng lượng tiền cung
ứng quá mức đối với nền kinh tế. Nhiều cuộc lạm phát diễn ra lại bắt nguồn từ giá hoặc
xuất phát từ sự suy giảm trong tổng cung của chính nền kinh tế đó. R.Dornbusch và Fischer
cho rằng: "Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một thời
gian nhất định" [47, tr. 587-588].
Nhìn chung, có hai cách tiếp cận: Một là, từ nguyên nhân; hai là, từ những ảnh
hưởng của nó.
Theo cách tiếp cận thứ nhất, "lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng"
hoặc "lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao động". Các
định nghĩa này thực chất chỉ là đưa ra các cách giải thích khác nhau về nguyên nhân của
lạm phát mà không phải là định nghĩa về lạm phát theo đúng nghĩa của nó.
Theo cách tiếp cận thứ hai, lạm phát là mức giá cả chung tăng lên. Tuy nhiên,
sự tăng giá mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, còn bản chất của nó
được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá là giá tăng cao kéo dài hay chỉ tạm thời?
Tóm lại, lạm phát là sự gia tăng phổ biến và với thời gian dài tổng mức giá cả
được đo bằng chỉ số giá của nhóm hàng hóa và dịch vụ cơ bản (rổ hàng hóa). Sự gia
tăng liên tục của giá cả làm suy yếu sức mua của đồng tiền và các tài sản tài chính khác
có giá trị cố định, gây ra những méo mó nghiêm trọng và tạo ra tình trạng không chắc
chắn trong môi trường kinh tế vĩ mô và vi mô.
1.1.2. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
- Phân loại theo định lượng: Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ phần trăm lạm phát
tính theo năm, trong đó có: (1) Lạm phát một con số hay gọi là lạm phát vừa phải. Loại
lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10%/ 1 năm và nền kinh
tế chấp nhận được với mức lạm phát này. (2) Lạm phát hai con số thể hiện khi tỷ lệ tăng
giá đã tăng đến hai con số mỗi năm. Nếu ở mức thấp của loại lạm phát này (> 10% mỗi
năm), tác động tiêu cực của nó đến nền kinh tế không lớn. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở
mức hai con số cao lạm phát này gây tác hại nghiêm trọng trong nền kinh tế. (3) Lạm
phát phi mã và siêu lạm phát là loại lạm phát ba con số trở lên với tốc độ nhanh. Tác
động tiêu cực đến đời sống và tính ổn định của nền kinh tế.
- Phân loại theo định tính: (1) Lạm phát cân bằng và không cân bằng (cân bằng
ở đây là cân bằng với thu nhập), trên thực tế, lạm phát không cân bằng hay xảy ra. (2)
Lạm phát thuần túy là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa
sản xuất đều tăng lên gần như cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian, lúc này
nhu cầu cần tiền thực tế tăng cùng chiều và khá tương đương với cung ứng tiền thực tế.
(3) Lạm phát bất thường xảy ra có tính đột biến, loại lạm phát này gây ra những cú sốc
nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền. (4) Lạm phát dự đoán
trước là việc người ta nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó sẽ xảy ra bởi các
nguyên nhân của nó đã lộ diện.
Ngoài ra, căn cứ vào mức độ biểu hiện giá cả trên thị trường có lạm phát ngầm,
lạm phát công khai; căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng về mặt không gian: có lạm phát
quốc gia và thế giới; căn cứ vào tính lịch sử, có lạm phát cổ điển gắn với xung đột chiến
tranh và lạm phát hiện đại gắn liền với hòa bình.
1.1.3. Đo lường lạm phát
Thông thường, lạm phát được tính toán gắn liền với tốc độ thay đổi của mức giá
cả một "rổ" hàng hóa và dịch vụ được lựa chọn nào đó, tùy thuộc đặc điểm và cách thức
riêng của mỗi nước cụ thể.
Để đo lường lạm phát, người ta phải so sánh giá cả giữa hai thời điểm khác
nhau t0 và t1. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế có nhiều loại hàng hóa nên trong khoảng
thời gian t0 - t1 mỗi loại hàng hóa có mức tăng giá (Pt1 - Pt0) khác nhau. Do vậy, để tính
được tỷ lệ lạm phát chung cho nền kinh tế, người ta phải lấy chỉ số giá cả bình quân của
cả nước làm chuẩn, có ba loại chỉ số giá cả bình quân được sử dụng là:
Giá cả hàng tiêu dùng (CPI - Consumer price index): Chỉ số CPI được sử dụng
rộng rãi nhất. CPI tính chi phí của một rổ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường
các nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư, y
tế.
Giá cả hàng sản xuất bình quân (PPI - Producer price index): Đây là chỉ số giá
bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn
định. Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế.
Giá cả bán lẻ bình quân (RPI - Retail price index): Cuối cùng, lạm phát thường
được đo bằng chỉ số (%), tức là tỷ lệ lạm phát (%) giữa hai thời điểm t0 và t1 là bằng
mức tăng giá cả hàng hóa bình quân giữa hai thời điểm, chia cho giá ban đầu và nhân
với tỷ lệ %:
Tỷ lệ lạm phát (t0 và t1)
0
01
Pt
PtPt
1.1.4. Nguyên nhân của lạm phát
Lạm phát là kết quả của tổng hòa nhiều nguyên nhân kinh tế - xã hội; mỗi loại
lạm phát có những nguyên nhân đặc trưng riêng của nó tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế -
xã hội và cách quản lý kinh tế của từng quốc gia. Tuy nhiên, dù đa dạng và khác nhau
đến đâu đều có thể quy tụ được những nguyên nhân của lạm phát:
* Cung tiền tệ và lạm phát:
Theo trường phái tiền tệ: M. Friedman cho rằng: "Lạm phát bao giờ và ở đâu
cũng là một hiện tượng tiền tệ". Theo quan điểm của trường phái này, khi cung tiền
tệ tăng lên, kéo dài sẽ làm cho giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát.
Chúng ta có thể sử dụng mô hình AD- AS để giải thích quan điểm của trường
phái tiền tệ.
P
P3
P
P
AS3
AS2
AS1
AD3
AD2
AD1
3
2
'
1
2
1
Hình 1.1: Mô hình AD, AS để giải thích quan điểm trường phái tiền tệ
Ban đầu, nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng tại mức tiềm năng và giá cả tại
P1- giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1. Nếu cung tiền tăng
đều đặn dần dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2.
Trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động sản lượng có thể tăng cao
hơn mức tiềm năng, nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ
làm cho tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ nhanh chóng dịch chuyển vào trong
và sự dịch chuyển ấy sẽ dừng khi nào đạt đến AS2, sản lượng quay trở lại mức tiềm
năng của đường tổng cung dài hạn. Tại thời điểm cân bằng mới thì P2 cao hơn P1. Nếu
cung tiền tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo thì nền kinh tế lại chuyển động và lạm
phát xuất hiện. Tóm lại, trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát nhanh có thể do sự tăng
cao của cung tiền tệ thúc đẩy.
Theo trường phái của Keynes, việc tăng chi tiêu của Chính phủ hoặc cắt giảm
thuế cũng làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao. Nhưng những vấn đề của chính
sách tài khóa lại có giới hạn của nó, vì vậy việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường
hợp này chỉ là tạm thời. Một phân tích khác của phía Keynes về tác động của những cú
sốc tiêu cực lên tổng cung cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Nhưng, nếu cung tiền tệ không
tiếp tục tăng lên để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng cung lại quay trở
lại vị trí ban đầu, do vậy sự tăng giá trong trường hợp này cũng chỉ là một hiện tượng
nhất thời.
Với những phân tích như vậy, quan điểm của phía Keynes và phía tiền tệ tương
đối thống nhất nhau. Họ đều tin rằng: lạm phát cao chỉ xảy ra với một tỷ lệ tăng trưởng
tiền tệ cao.
* Công ăn việc làm cao và lạm phát
Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số Chính phủ các nước theo đuổi
cũng thường gây nên lạm phát đó là tạo việc làm cho người lao động. Trong đó có hai
loại: lạm phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo, được các nhà kinh tế học kết luận là kết
quả của chính sách này.
- Lạm phát do chi phí đẩy: Ngay cả khi sản lượng chưa đạt được đến tiềm năng
nhưng vẫn có khả năng xảy ra lạm phát và trên thực tế đã xảy ra ở nhiều nước. Loại lạm
phát này được gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng
thêm thất nghiệp. Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào đặc biệt là vật tư thiết bị cơ
bản(xăng, dầu, điện....) là nguyên nhân chủ yếu khiến đường AS dịch chuyển lên trên.
Tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả đã tăng và sản lượng lại giảm xuống.
- Lạm phát do cầu kéo: Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối về
cung-cầu hàng hóa dịch vụ trong đó cầu có khả năng thanh toán lớn hơn so với cung
hàng hóa hoặc tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn tốc độ gia tăng của
sản xuất. Kết quả là trên thị trường hàng hóa khan hiếm tương đối so với tiền, đồng thời
do cả hai nhóm nguyên nhân hàng và tiền. Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển, năng
suất lao động thấp, năng lực sản xuất đã hầu như đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng
trong điều kiện trình độ hiện tại nhưng tiền vẫn được bơm ra quá sức hấp thụ thông qua
các van: Chi ngân sách quá lớn so với nguồn thu, mở quá rộng biên độ của hạn mức tín
dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá nhỏ, lãi suất tái cấp vốn quá thấp, hệ thống thị trường
vốn vừa thiếu, vừa không hoàn hảo trong khi ngoại tệ tràn vào nhiều càng tạo thành
những "hợp lực" kích cầu lên cao hơn so với cung...
* Lạm phát theo tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ tới giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu. Tỷ giá
giữa tiền nội địa và tiền nước ngoài càng lên (tiền trong nước mất giá) thì hàng hóa càng
lên giá. Và đến lượt mình, giá hàng hóa kéo tỷ giá lên nhanh hơn, gây ra tình trạng lạm
phát. suy cho cùng, mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá có thể quy về sự gia tăng của
cung ứng tiền. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều đồng thuận với nhau rằng có yếu tố tâm
lý trong khuynh hướng kéo hàng hóa lên theo tỷ giá trong khi lạm phát đã hình thành và
khuynh hướng này rất phổ biến trong khu vực xuất nhập khẩu [26, tr. 59].
* Thâm hụt ngân sách và lạm phát
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng
tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Khi nhu cầu tiền của Chính phủ cho chi tiêu bị thiếu hụt, Chính phủ chủ trương
phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí bị thiếu hụt. Khi vốn đầu
tư và chi tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng cách phát hành thêm tiền, kể cả việc
tăng thuế, thì nó sẽ đẩy nền kinh tế đi vào thế mất cân đối, vượt quá sản lượng tiềm
năng của nó. Khi tổng cầu của nền kinh tế vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế,
cầu tiền vượt quá lượng cung hàng hóa dẫn đến lạm phát, giá cả hàng hóa tăng lên
nhanh chóng.
Hàng hóa bị săn đuổi bởi lượng chi tiêu quá lớn. Như vậy, bản chất của lạm
phát đó do nguyên nhân cầu là do chi tiêu quá nhiều, trong lúc lượng cung hàng hóa bị
hạn chế.
Trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài sẽ
là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát.
1.1.5. Các tác động của lạm phát
Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế, làm thay đổi mức độ và hình thức sản
lượng, đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội. Hơn nữa, lạm phát tác
động đến nền kinh tế theo cả hai hướng tiêu cực và tích cực.
* Về mặt tích cực:
Với tốc độ lạm phát vừa phải (thường là từ 2% đến dưới 5 %/năm ở